Sa Pa là một huyện miền núi vùng cao nằm về phía tây bắc của tỉnh Lào
Cai, diện tích tự nhiên 67.905 ha chiếm 8,44% diện tích toàn tỉnh. Sa Pa
có 6 dân tộc cùng chung sống như Mông, Dao, Kinh, Tày, Dáy, Xa Phó dải
từ vùng hạ huyện, qua trung huyện đến thượng huyện với tổng dân số
35.427 người phân bố không đều ở 17 xã và thị trấn. Dân tộc Kinh chủ yếu
cư trú tại thị trấn Sa Pa sống bằng nghề kinh doanh dịch vụ, các dân
tộc khác chủ yếu cư trú ở các xã sống bằng nghề nông - lâm kết hợp.
Phong tục cưới hỏi của vùng người Mông ở huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai được
tiến hành như sau.
Sa Pa là một huyện miền núi vùng cao nằm về phía
tây bắc của tỉnh Lào Cai, diện tích tự nhiên 67.905 ha chiếm 8,44% diện
tích toàn tỉnh. Sa Pa có 6 dân tộc cùng chung sống như Mông, Dao, Kinh,
Tày, Dáy, Xa Phó dải từ vùng hạ huyện, qua trung huyện đến thượng huyện
với tổng dân số 35.427 người phân bố không đều ở 17 xã và thị trấn. Dân
tộc Kinh chủ yếu cư trú tại thị trấn Sa Pa sống bằng nghề kinh doanh
dịch vụ, các dân tộc khác chủ yếu cư trú ở các xã sống bằng nghề nông -
lâm kết hợp. Phong tục cưới hỏi của vùng người Mông ở huyện Sa Pa tỉnh
Lào Cai được tiến hành như sau.
Phong tục hỏi vợ.
Trong cuộc sống đời thường, chuyện dựng vợ gả chồng người nào, vùng
nào cũng đều thận trọng bởi phần lớn những đám cưới này đều là một sự
quyết định cho cả cuộc đời mỗi con người…Do đó người nào cũng coi việc
cưới hỏi là một trong những việc lớn và quan trọng của đời người. Cho dù
mỗi vùng miền, mỗi dân tộc đều có những tập quán cưới hỏi khác nhau rất
phong phú, đa dạng, nhưng ý nghĩ chủ đạo trong việc cưới hỏi đều giống
nhau, việc cưới hỏi của vùng người Mông Sa Pa cũng không nằm ngoài suy
nghĩ đó. Sự quan tâm của họ còn sâu sắc hơn, mỗi khi có trai gái trẻ yêu
nhau say đắm, thề thốt sẽ cùng xây dựng tổ ấm chung sống đến đầu bạc
răng long. Khi hai người yêu nhau và có thời gian tìm hiểu nhau vài ba
năm tới lúc họ thực sự muốn tổ chức kết hôn thành vợ thành chồng của
nhau, người con trai thổ lộ ý định của mình với cha mẹ, cha mẹ tìm hiểu ý
định của con trai qua hội bạn của con mình, bàn bạc với chú bác cùng
góp ý thận trọng tiến hành từng bước một.
Tục nắm bắt thông tin.
Qua vài lần hội ý thống nhất, nhà trai cử người thân thiết như bà
cô, hay bà dì, hay chị gái, em gái của chàng trai, có khi là người mẹ
chàng trai lấy cớ tới chơi thăm thú họ hàng người thân ở làng nhà gái
chơi với mục đích ngầm theo dõi những hành động, cử chỉ, lời ăn tiếng
nói, lối ứng xử giao tiếp của người con gái mà con trai nhà mình đã yêu.
Ngoài ra còn thăm dò tin tức nhận xét đánh giá về nhân phẩm đạo đức,
lối sống, tính tình của người con gái bên nhà gái qua hàng xóm láng
giềng ở bản làng nhà gái. Khi đã có đầy đủ thông tin về nhà trai cung
cấp lại toàn bộ thông tin mà tai nghe, mắt thấy cho chủ nhà trai, qua đó
người chủ nhà bố của con trai mời bác chú đến cùng nhận xét đánh giá,
cùng đưa ra nhận định chung: nếu như mọi người cùng chấp nhận thì bước
tiếp theo được tiến hành, không chấp nhận thì buộc con trai từ bỏ ý định
của mình.
Tục bói số vợ chồng:
Trong phong tục cưới hỏi của người Mông Sa Pa tục bói số hợp vợ,
hợp chồng là một khâu hết sức quan trọng, việc này quyết định cho sự
thành hôn hay không của đôi trai gái trẻ. Qua khâu nắm bắt thông tin
người con gái được người nhà trai chấp nhận thì nhà trai tiến hành làm
thủ tục bói số để đoán biết số mệnh của cô dâu tương lai và con trai nhà
mình có hợp số mệnh không? Có sống được cả đời tới khi già không?
Tục bói số vợ chồng của vùng người Mông Sa Pa có hai hình thức khác nhau. Hình thức thứ nhất bói bằng hương:
Khi bói người cha hay mẹ của con trai lấy ba nén hương đốt cháy sẵn ra
đứng chính giữa ngoài cửa chính đọc lời cầu khấn với ma trời, ma đất,
đọc ngày tháng năm sinh, con gái thứ mấy của nhà gái với con trai nhà
mình sau đó quay vào trong nhà đứng tại cột ma chính đọc lời cầu khấn
một lần nữa, đọc xong họ cắm cả ba nén hương xuống gốc cột ma chính, họ
theo dõi và đoán biết kết quả tốt xấu qua quá trình cháy của ba nén
hương đó nếu ba nén hương cháy đều nhau đến hết là được. Nếu có một nén
hương cháy ở độ cao hơn, hai nén cháy thấp hơn đều nhau là rất tốt nó
biểu hiện nén hương cháy cao hơn là cha mẹ trụ cột gia đình, còn hai nén
cháy thấp đều nhau là cô dâu, chú rể tâm đầu ý hợp sau này hai vợ chồng
sẽ có lối sống kỷ cương, kính trên nhường dưới, sống lâu tới đầu bạc
răng long… Cả ba nén hương cháy không đều nhau là xấu. Hình thức thứ hai bói bằng con gà:
khi bói người ta bắt một con gà con tầm bẩy tám lạng hay một cân cùng
với ba nén hương người cha hay mẹ bói đều được, người bói cầm con gà và
hương đốt cháy sẵn ra đứng chính giữa ngoài cửa chính đọc lời cầu khấn
như đã nêu trên sau đó vào trong nhà đứng trước cột ma chính đọc lời cầu
khấn như trên xong, người bói cắm ba nén hương xuống chân cột ma chính.
Họ đem con gà bói đó cắt tiết tại trung tâm gian nhà chính thường thờ
cúng tổ tiên khi con gà gần chết họ thả con gà xuống đất con gà dẫy nảy
tứ tung, khi chết hẳn đầu quay về phía nào cũng được. Cách xem và đoán
nhận biết biểu hiện tốt xấu: người bói thấy con gà chết quay đầu về
hướng đông và hướng bắc họ cho là tốt, họ cho rằng nó biểu hiện ba điều
tốt như sau:
Điều thứ nhất: Nếu lấy là được người con gái đó sẽ đồng ý về làm dâu nhà mình không có ai cản trở, hồn vía nó đã về rồi.
Điều thứ hai: Hai đứa con trai, con dâu có sự hướng thiện về phía ánh sáng mặt trời, đường đời sáng lạng trong tương lai.
Điều thứ ba: Hai đứa đều có tính tôn ti trật tự tôn trọng bề trên
quan tâm tổ tiên. Nếu con gà đó chết quay đầu về hướng tây, nam là biểu
hiện không tốt. Theo quan điểm của người Hmông Sa Pa thì hướng tây là
hướng tối, hướng nam là hướng tụt. Nếu biểu hiện như vậy thì việc cưới
hỏi sẽ không được thực hiện.
Qua việc tìm hiểu nắm bắt thông tin trên đi đôi với một trong hai
tục bói số hợp vợ, chồng trên đây nhà trai cảm thấy hợp số mệnh giữa con
trai nhà mình với người yêu thì các bước tổ chức sẽ được triển khai
tiếp theo.
* Phong tục kéo vợ.
Truyền thống người Mông Sa Pa vốn rất tôn trọng nhau, nhất là phái
nam tôn trọng phái nữ gần như mẫu hệ, phụ chủ đã ăn sâu vào tiềm thức
con người nơi đây. Trong cuộc sống đời thường cái gì to cũng là của
người mẹ kể từ chức quan, nhà cửa, ruộng nương… Ngược lại người mẹ,
người vợ rất thương người cha, người chồng. Những hình ảnh người đàn ông
say rượu nằm ngủ cạnh đường người phụ nữ cầm ô che nắng, tay dắt ngựa
chở chồng về bản là một hình tượng đẹp chỉ có ở người Mông. Trong cưới
hỏi người con gái được tôn trọng hơn, từ danh giá nhân phẩm cho đến đức
tính quý phái của chị em với tính cách thương người thẳng thắn cương
trực và tốt bụng của những chàng trai người Mông, hiện tượng yêu đương
lăng nhăng, ly hôn ít xảy ra ở vùng người Mông. Biểu hiện sự kết hôn
luôn bền chặt, ít khi bịũáo trộn.
Tục kéo vợ
Tục kéo vợ là một biểu hiện rõ nét người Mông thường dùng từ kéo cô
dâu hay kéo vợ. Trong cuộc sống mặc dù đôi trai gái yêu nhau đắm đuối,
từng thề thốt cùng chung sống với nhau cả đời, lúc lấy nhau thật cũng
phải tổ chức kéo thì cô gái mới chịu về nhà chồng, không có cô gái nào
tự bước chân về nhà chồng cả, ý nghĩa chính của việc kéo vợ thể hiện sự
danh giá của người con gái qua ba nghĩa chính:
- Thứ nhất: Cô gái không bị xã hội đánh giá thấp hèn cam chịu chay
theo con trai một cách mù quáng hạ thấp mình để hầu hạ nhà trai.
- Thứ hai: Người con trai thực sự cần lấy cô gái làm vợ thật với
thiên chức của người mẹ mới tổ chức kéo vợ, thể hiện thái độ rõ ràng cụ
thể.
- Thứ ba: Tránh sự đồn thổi tai tiếng xấu của xã hội và sự ngược đãi sau này của người chồng và người nhà trai.
* Chuẩn bị đi kéo vợ: Khi đã được nhà trai cho phép con trai được
lấy vợ, cả nhà tập trung cùng lo, cho người đi mời phù dâu, phù rể, cô
chú cùng đi giúp kéo vợ, đoàn người kéo vợ thường có ít nhất 5 người
chính thức và một số người khác phụ giúp. Một cô gái trẻ chưa có chồng
khác họ nhà trai làm phù dâu, một chàng trai khác họ với nhà trai chưa
có vợ làm phù rể, một người anh hoặc bác ruột có hiểu biết cầm trịch, và
chú rể chồng của cô dâu, một người thường là bà cô hay bà dì đại diện
mẹ chú rể với một số bạn trai trẻ biết cách kéo vợ đi giúp chàng trai
kéo vợ. Tiêu chí những người được chọn tham gia đoàn người kéo vợ gồm 03
tiêu chí chính:
- Thứ nhất: Phù dâu, phù rể phải là người chưa có chồng, chưa có
vợ, có lối sống đạo đức tốt, kính trên, nhường dưới, nói năng nhẹ nhàng
có hiểu biết.
- Thứ hai: Người cầm trịch và người nữ đại diện cho nhà trai là
những người có vợ chồng, con cái đầy đủ (không hoá vợ, hoá chồng), làm
ăn phát đạt sống có uy tín với bản làng.
- Thứ ba: Tất cả số người này phải biết cách kéo vợ, bởi cách kéo
vợ của người Hmông là cả nghệ thuật sống thực sự, chính cô gái bị kéo là
người chịu ảnh hưởng lớn, nếu không biết cách kéo, khi kéo sẽ bị sứt
đầu mẻ chán làm đau đớn cho người bị kéo, khi đôi co với người thân và
cô gái bên nhà gái.
Trước khi đi cả đoàn người hội ý thống nhất, khi đi chia theo tốp
để tránh sự nghi ngờ của người khác. Con trai và phù rể đi trước, phù
dâu và người đại diện mẹ nhà trai theo sau, người đàn ông cầm trịch nhà
trai và tốp con trai đi kéo hộ đi sau cùng. Khi tới điểm hẹn nhà trai bố
trí sẵn cho con trai mình hẹn gặp người yêu đến cùng tâm sự tại một địa
điểm thuận lợi như đón đường nhà gái đi làm, đi chợ hay đi chơi xuân
ngày tết… Mọi người nấp vào các bụi rậm hai bên đường để lại chàng trai
và phù rể dạo bộ để đón gặp bạn gái, khi thấy người yêu xuất hiện thì
chàng trai chủ động chào hỏi tán tỉnh giữ chân cô gái lại nói chuyện một
lúc để cô gái không đề phòng nữa.
- Bắt đầu kéo: Chàng trai tán tỉnh cô gái một lúc thấy thuận
lợi, chàng trai tóm lấy tay cô gái nói: Lần này ta kéo nàng về làm vợ
ta đây. Nói xong chàng trai giữ chặt lấy người yêu lại, những người kéo
giúp sám vào hai người biết kéo tì vai vào nách cô gái, quẳng hai cánh
tay vào vai của hai người kéo giữ chặt lại cứ thế nhấc bổng cô gái lên
mà chạy về nhà chồng, kéo kiểu này là người biết cách kéo, không gây
thương tích cho người bị kéo, chân người bị kéo không chạm đất, không có
lực giằng co, không đánh trả được, mồm không thể cắn ai được. Hai người
kéo cô gái đi một quãng xa thấy mệt thì hạ cô gái xuống và giữ chặt,
hai người khác đến thay thế và đưa cô gái về đến nhà trai.
Nếu như gặp phải sự phản ứng gay gắt của người nhà gái thì hội kéo
cứ thế kéo cô dâu đi, để lại người cầm trịch hát đối đáp với người nhà
gái, chú rể ở lại với người cầm trịch để tạ lỗi với người nhà gái, phù
dâu, phù rể cùng cô dâu về nhà trước. Khi về đến gần nhà trai, đoàn
người kéo vợ cử một người chạy trước về báo với những người chờ sẵn
trong nhà như bố, mẹ hay các cô, chú của chú rể bắt một đôi gà, một gà
mái tơ, một gà trống chưa gáy đợi sẵn ở cửa chính khi đoàn người kéo cô
dâu về đến đó thì người đó làm lý gọi hồn. Lúc đoàn người về đến cửa thì
chưa vội đưa cô dâu vào nhà, người ta giữ cô dâu, chú rể ở ngoài cửa
chính, người làm lý đốt ba nén hương tay cầm đôi gà huơ huơ chân, cào
cào từ đầu đến chân cô dâu, chú rể lẩm bẩm gọi hồn, xong xuôi mang gà mổ
thịt làm cơm tiếp đãi đoàn người đi giúp kéo cô dâu. Trong bữa cơm này
nhà trai mời một người có hiểu biết cùng ăn cơm, sau đó giúp nhà trai
sang nhà gái báo tin cho nhà gái biết, nhà trai đã kéo được con gái họ
về làm dâu nhà trai. Nhà trai mang lễ vật báo tin là một gói thuốc lá tự
trồng, một sừng trâu rượu. Khi người báo tin đến nhà gái, nhà gái đi
mời ông bác hay chú đến nhà đại diện cho nhà gái tiếp người báo tin.
Người báo tin mời thuốc, mời rượu cho người đại diện nhà gái và cả những
người có mặt trong nhà gái xong, người báo tin chính thức rót hai chén
rượu đưa cho người đại diện nhà gái và dạm hỏi lễ vật mà nhà gái cần
thách và thời gian để làm lễ cưới. Khi đã được nhà gái công bố các lễ
vật xong, người báo tin về nhà trai báo lại toàn bộ sự việc các loại lễ
vật cho nhà trai, thời gian để hai bên tổ chức lễ cưới.
Từ khi kéo được cô dâu về, nhà trai bố trí cô dâu và phù dâu ngủ
chung ba đêm, sáng thư ba giã bánh dầy đưa cô dâu về nhà lấy đồ thay.
Đoàn người đi sang nhà cô dâu lấy đồ gồm cô dâu, chú rể, phù dâu, cha
hay mẹ chú rể, khi đến nhà gái chú rể phải quỳ lậy tất cả các thành viên
nhà gái để làm quen. Nhà gái tổ chức bữa cơm tiếp đãi nhà trai, tại bữa
cơm này người đại diện nhà gái bà dì hay bà cô hỏi cô gái thật kỹ có
thể chung sống cả đời với nhà trai được không? Khi đến nhà gái, cô gái
vui vẻ trả lời và đồng ý về làm dâu nhà trai. Thấy vậy nhà gái yên tâm
dọn đồ tư trang của cô gái cho cầm về nhà chồng bắt đầu một cuộc sống
mới được ăn nằm chung như vợ chồng thật, mọi việc chuẩn bị cho đám cưới
bắt đầu. Nếu như vừa đến nhà gái người con gái buồn rầu, khóc lóc van
xin cha mẹ không muốn về nhà trai thì hôn nhân chấm rứt từ đó.
Việc làm này gần như tạo điều kiện cho cô dâu tương lai được về
sống thử với nhà trai trong thời gian ba ngày, nếu qua cảm nhận trong ba
ngày đó được cô dâu chấp thuận thì cuộc sống làm dâu được chính thức
bắt đầu diễn ra, nếu không coi như đã chấm dứt.
Phong tục tổ chức đám cưới.
Qua việc lấy đồ thay, nếu cô dâu vui vẻ về với chú rể thì nhà trai
chuẩn bị các lễ vật tổ chức lễ cưới cho đôi bạn trẻ qua việc thách lễ
vật cưới của nhà gái thường thì lễ vật gồm:
- Lợn: 01 con 50 kg
- Rượu: 40 lít rượu nấu bằng thóc hay ngô
- Tiền: Hai triệu đồng tiền mặt
- Gà: 04 con luộc chín
- Thìa gỗ: 02 cái, một túi xôi to để ăn trưa
- Một ít thuốc lá tự trồng, một số tiền đề phòng phát sinh.
Chọn ngày tổ chức đám cưới:
Vào mùa đông - xuân chọn ngày thìn và các ngày khác trong tuần tuỳ
theo sở thích của nhà trai, nhưng thường thì người ta trừ ngày lập xuân
của năm đó (ngày có tiếng sấm đầu tiên của năm) và các ngày con giáp có
tính độc ác như ngày dần, thân, ngọ… Các ngày mất của người thân trong
hai nhà trai và gái.
Vào mùa hè - thu thường bỏ ngày thìn. Người Mông cho rằng vào mùa
này rồng hay tác oai, tác quái làm mưa làm gió, đám cưới chọn ngày này
vợ chồng trẻ sống với nhau hay bị đảo lộn cuộc sống.
Ban tổ chức lễ cưới.
a) Bên nhà trai gồm có:
- Một ông Trưởng ban người Mông gọi là “Txir tuôv minhx cungz”;
- Một ông phó ban người Mông gọi là “Txir lưv minhx cungz”;
- Chú rể;
- Cô dâu;
- Một cô phù dâu;
- Một anh phù rể;
- Một người dắt lợn một người thồ rượu, hai người này gọi là khách chuyển giao lễ vật (kruô xang tsax).
Ngoài ra còn có người cha của chú rể đại diện chính cho nhà trai.
b) Bên nhà gái gồm có: Hai ông trưởng, phó ban như nhà trai,
một ông quan làng làm nhiệm vụ giữ trật tự đám cưới, những người thân
quen hàng xóm láng giềng.
- Tại nhà trai:
Trước khi chuẩn bị đi sang nhà gái, nhà trai làm
bữa cơm tiếp đãi những người trên, sau khi ăn cơm sáng xong, người nào
vào việc nấy, người trưởng ban tổ chức đi trước, đến người phó ban, chú
rể, cô dâu, phù rể, phù dâu sau đó là người dắt lợn, thồ rượu, đi đến
nửa quãng đường mọi người chọn chỗ nghỉ ăn trưa lấy gà, xôi bẻ chia cho
mỗi người một miếng thịt và nắm xôi ăn. Trước khi ăn ông trưởng ban tổ
chức (Txir tuôv minhx cungz) làm lý đánh đuổi ma tà để cho mọi người đi
đến nơi về đến chốn, để cho hai vợ chồng sau này không bị tà ma quấy rối
để cho cha mẹ và cô dâu, chú rể sống hoà hợp. Sau khi ăn xong mọi người
lại lên đường đi sang nhà gái, đây là một thủ tục trừ tà ma trong đám
cưới mà đám cưới nào khi đi cũng làm, về cũng làm, không được bỏ qua.
- Đến nhà gái:
Đoàn người nhà trai đến nhà gái đều phải đi qua cửa
chính, trưởng phó ban nhà trai vào trước, đeo sừng trâu rượu và ô vào
treo đúng cột ma chính trong nhà gái, đầu sừng rượu quay vào trong, tiếp
đến hai người chuyển lễ vật, tiếp đến cô dâu, chú rể và đến mọi người,
khi ngồi yên vị, hai bên nhà trai, nhà gái mời thuốc, mời rượu nhau
xong. Hai ông trưởng, phó ban nhà trai bắt đầu câu chuyện với hai ông
trưởng, phó ban nhà gái, mở đầu câu chuyện, hai ông xin chén của nhà gái
uống rượu tiếp theo kiểm chứng và bàn giao lễ vật mà bên nhà gái đã
thách, định sẵn cho nhà trai từ trước, nếu mọi lễ vật đủ cả số lượng và
chất lượng xong, sau khi giao đủ lễ vật cho hai ông trưởng, phó ban tổ
chức nhà gái thì lễ cưới được tổ chức ngay. Nếu qua kiểm chứng mà lễ vật
không đầy đủ thì hai bên bàn bạc gia hạn trả đủ. Gặp phải trường hợp
này thì lễ cưới kéo dài thời gian hơn.
Sau khi giao lễ vật cho nhà gái, hai ông ban tổ chức nhà
gái giao cho những người giúp việc mang lợn đi mổ thịt, lễ cưới được
thực hiện.
Kiêng kỵ, cách bầy mâm, lệ ăn uống.
Trong đám cưới người Mông thường lệ có một số kiêng kỵ
nhằm tránh những ảnh hưởng xấu tới cuộc sống sau này của hai vợ chồng
trẻ:
Thứ nhất: Khi nấu nướng đồ ăn không được để gáo múc nước
trong thùng nước bởi như vậy khi múc nước sóng hay xô đẩy gáo hay xoay
tít sẽ ảnh hưởng tới cuộc sống của hai vợ chồng sau này cứ loanh quanh
chỗ này, chỗ nọ không ở được nơi nào cố định, cuộc sống sẽ khó khăn vất
vả.
Thứ hai: Khi bầy đồ ăn lên mâm cưới không nên làm rơi vỡ
bát, chén đũa thìa bởi vô tình như vậy sẽ ảnh hưởng không tốt cho cuộc
sống vợ chồng trẻ sau này, sống nửa chừng đang yên đang lành thì đùng
cái thì chết vợ hoặc chết chồng. Nhẹ cũng gẫy chân, gẫy tay, cuộc sống
đen đủi.
Thứ ba: Không ăn muối tiêu ớt, nếu ăn muối cuộc đời sau này
sẽ gặp sót xa, ăn tiêu ớt cuộc đời sẽ gặp đắng cay. Chính vì bảo vệ cuộc
sống cho cô dâu, chú rể cả cuộc đời sau này được yên vui bền vững việc
kiêng kỵ rất quan trọng nên mỗi khi tổ chức nhà trai phải bàn với nhà
gái rất kỹ để chọn ra một người giỏi dang ngăn nắp đứng ra quản lý những
người tham gia nấu nướng đò ăn một cách thận trọng.
Khi thịt chín, trước tiên họ bầy mâm múc ra mỗi thứ một ít thịt ở
các tạng phủ của con lợn cưới bầy lên trên đó cho ông chủ nhà gái khấn
thờ tổ tiên, sau đó mới bầy cỗ.
Quy định loại mâm.
Trong đám cưới người Mông, người ta phân ra hai loại mâm, loại mâm
chính khách dành cho đàn ông thường có đặt danh như các ông trưởng, phó
ban tổ chức của hai bên, quan làng, các vai vế có danh khác thường được
bầy trước bàn thờ tổ tiên, thường sắp xếp chỗ ngồi từ cao xuống thấp, từ
đông sang tây… Loại mâm phụ thường dành cho những người nữ chính khách
hai bên và số khách tới dự bình thường bầy chỗ nào cũng được.
Cách bầy mâm chính và quy định chỗ ngồi.
Trong đám cưới của người Mông thường bầy mâm cơm chính theo chiều
dài ngôi nhà, trong gian giữa hướng Đông Tây, người ta kê một dãy bàn
dài để bầy thức ăn người ngồi xung quanh như hình chữ nhật. Bên đầu mâm
phía Đông sát tả ly trong nhà là chỗ ngồi của bố cô dâu, cạnh bên trái
phía cửa là chỗ ngồi của bố chú rể, chỗ giáp tả ly dương phía trong bàn
thờ là chỗ của ông trưởng ban tổ chức bên nhà gái tiếp là ông quan làng
và anh em nhà gái. Hàng ghế sát ngoài cửa chính bên tả ly âm là ông
trưởng phó ban nhà trai, chú rể, phù rể và người đưa lễ vật. Sau khi ổn
định chỗ ngồi người ta bầy chén, bát đĩa theo số người ngồi trên mâm,
còn lại người ta sắp xếp bầy các mâm phụ ở các gian nhà khác sao cho hết
chỗ khách đến dự đám cưới. Trong truyền thống của người Mông, người ta
bố trí nam, nữ ăn riêng, do vậy ngoài mâm chính khách ra, người ta bầy
mâm chính khác cho nữ chính khách của hai nhà trai gái ở gian bếp lò, do
chị em không phải thờ cúng tổ tiên không nhất thiết phải ăn cơm trước
bàn thờ tổ tiên.
Lệ ăn uống.
Theo lệ làng người Mông thường quy định uống rượu ăn cỗ phải cân
bằng nên cần có người điều hành, nếu không việc uống giả dối người uống
cạn, người không, nếu không cẩn thận thì khách sẽ bị đói khát do việc
giữ ý xấu hổ…Gia chủ sẽ bị mang tiếng không quan tâm đến mọi người. Do
đó người Mông có câu cơm có ngon hay không cũng phải ăn ba bát, rượu có
ngon hay không cũng phải uống ba chén, đất có tốt hay không cũng phải ở
ba năm.
Khi làm món ăn người ta lấy các bộ phận tạng phủ của con lợn đem
nấu riêng từng món khi bày đầy đủ các món lên mâm, người ta cử hai người
làm nhiệm vụ rót rượu và điều hành ăn uống tên gọi: Người cầm bằng (tuz
tuôr tax), mọi việc xong xuôi hai người này công bố bữa ăn đã được. Lúc
này ông quan làng đứng lên trịnh trọng tuyên bố bữa tiệc được tiến
hành, ăn uống phải nghiêm túc không được lợi dụng rượu say sách nhiễu…
Bốn ông chủ hôn đứng lên làm lý cảm ơn nhau, mời nhau uống rượu,
mời nhau thức ăn, khi ăn hai người cầm bằng luôn đi lại sau lưng của
khách, kiểm tra chén, bát lần lượt từ hai ông bố đến hết mọi người trên
mâm, thấy trong chén người nào hết rượu, trong bát hết thịt thì rót tiếp
lần thứ hai, chén ai còn ít rượu, bát còn ít thịt thì họ rót đầy rượu,
gắp đầy thịt bắt phải ăn uống hết mới được rót tiếp. Sau ba lượt chén
uống rượu ông chủ hôn nhà trai xin phép cả mâm cho chú rể và phù rể làm
lý tạ ơn những người đến dự đám cưới. Nhà gái lấy một chiếc chiếu trải
trước cửa chính chú rể và phù rể đứng cạnh chiếu hướng vào mâm cơm chính
khách và bàn thờ nhà gái khi chủ hôn đọc lời: Cùng tổ tiên ma nhà lạy
một lạy, lúc này chú rể, phù rể quỳ lạy một lần, đọc tiếp vế hai: Lại
nhận diện, hai người lạy một lần. Việc này diễn ra hết những người có
danh vế trong đám thì mọi người ăn cơm, sau bữa cơm số người nhà trai
chuẩn bị ra về. Lúc này cả đám cưới rộn vang tiếng nói tiếng cười hát hò
đưa đón dâu. Các anh em trai bên nhà gái thì ai cũng cầm bầu rượu, chén
chúc trong tay nhằm làm quen và chúc mừng cho chú rể qua những bài hát
đối đáp say đắm. Chị em phụ nữ cũng không kém, người nào cũng má hây hây
đỏ tay cầm bầu rượu đi chúc mừng cô dâu. Bước tiếp theo là uống rượu
thích (tới) nhà gái bố trí nam thanh nữ tú chưa vợ chưa chồng mỗi người
một bầu rượu để uống với những người cùng trang lứa bên nhà trai. Những
ông cụ bà cụ bảy tám mươi tuổi cũng cầm chén rượu thủ thỉ cất lên những
câu hát thời còn trẻ. Cả đám cưới biến thành một cuộc đua tài ca hát của
nhiều đối tượng khác nhau như một hội hát thực thụ, một cơ hội gặp gỡ
làm quen kẽo dài mãi không ngừng.
Lúc này đòi hỏi chủ hôn và nhà trai giỏi hát đối đáp mới nhanh
thoát khỏi nhà gái. Khi về đến nhà trai, những người khá giả thì tổ chức
đám cưới lần thứ hai tại nhà trai việc tổ chức này chỉ mang ý nghĩa
thiết thết đãi cảm ơn những người giúp việc, mọi thủ tục không nhiều nên
còn tuỳ thuộc vào từng gia chủ với hoàn cảnh cụ thể.
Kết luận:
Trong việc cưới hỏi của các dân tộc Việt Nam ta rất phong phú và đa
dạng, mỗi dân tộc, mỗi vùng miền đều có lễ thức truyền thống tổ chức
cưới hỏi từ lâu đời tồn tại trong cộng đồng dân tộc từng vùng miền. Tuy
nhiên việc bảo tồn và duy trì những hình thức cưới hỏi này cho tới nay
ít bền vững, do bản thân nó còn chứa đựng một số tập tục lạc hậu và sự
đua đòi của một số ít người. Còn một số người hay buông lỏng sự quan tâm
không gìn giữ và phát triển nó cho đời sau, đi đôi với việc kinh tế còn
khó khăn vô hình chung các dân tộc mong muốn việc cưới hỏi đơn giản bao
nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Hiện nay việc cưới hỏi của dân tộc các vùng
miền gần giống nhau với cùng ý nghĩ ăn góp ăn trả. Đến dự đám cưới ai
đến trước ăn trước, ai đến sau ăn sau vội vàng nộp phong bì xong về
luôn, tình trạng này gần như diễn ra từ thành thị đến nông thôn. Tổ chức
như vậy sẽ làm mất đi sinh hoạt văn hoá trong cưới hỏi, có nguy cơ đánh
mất luôn giá trị văn hoá truyền thống trong cưới hỏi mà cha ông ta đã
dày công gây dựng nên.
Trong việc cưới hỏi của người Mông Sa Pa ít nhiều cũng bị ảnh hưởng
như trên, may thay họ vẫn còn lưu giữ được. Sa Pa là vùng du lịch nổi
tiếng trong và ngoài nước. Du lịch phát triển, truyền thống văn hoá các
dân tộc được coi trọng, văn hoá cưới hỏi, phong tục kéo vợ được đưa ra
thành những chương trình biểu diễn sinh hoạt văn hoá chợ (chợ tình Sa
Pa) là một hình thức đặc biệt còn nguyên bản sắc văn hoá riêng của người
Mông Sa Pa ít nơi nào còn tồn tại. Qua bài viết này, rất mong nhận được
sự chia sẻ quan tâm và bảo tồn những giá trị văn hoá còn tồn tại trong
mọi vùng miền để đóng góp phong phú cho văn hoá nước nhà./.
Giàng Seo Gà
Trung tâm VHTT-TT
huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai
Xem thêm các chủ đề: cuoi hoi, cuoi hoi tron goi, le cuoi, le an hoi, be trap, quay phim, chup anh cuoi, hoa cuoi, thiep cuoi, an hoi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét