Thứ Sáu, 13 tháng 4, 2012

Đám cưới người Việt ở vùng đất Ngã Năm xưa

1. Người Việt ở Ngã Năm
Ngã Năm là một huyện nằm ở phía Tây, thuộc vùng trũng của tỉnh Sóc Trăng. Đông giáp huyện Mỹ Tú và huyện Thạnh Trị. Tây và Nam giáp tỉnh Bạc Liêu. Bắc giáp tỉnh Hậu Giang.
Địa danh Ngã Năm cũng có các đặc điểm như các vùng đất phèn chua nước ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long nói chung và vùng Bạc Liệu – Hậu Giang – Sóc Trăng nói riêng. Vùng đất này, sông ngòi chằng chịt, hai bên bờ, lá dừa nước mọc um tùm, cùng với nó là ô rô, cóc kèn, choại, ráng, … Dân cư ở thành xóm dọc ven sông rạch, … Những lớp cư dân đâu đến đây mở cõi còn lưu giữ nhiều nét văn hóa dân gian độc đáo. Một trong số đó là những cách thức và những kiêng kỵ trong cưới hỏi để trai gái nên vợ thành chồng. Qua khảo sát điền dã, chúng tôi thu thập thông tin từ các bậc cao niên trong vùng, xin có vài lời miêu tả để bạn đọc gần xa thưởng lãm.
2. Các nghi thức trong lễ cưới của người Việt xưa ở Tây Nam Bộ
2.1. Cậy mai – mối
Khi trai gái trong làng, trong xóm lớn lên mười bảy, đôi mươi, một người đứng tuổi nào đó thấy trai nhà này với gái nhà kia xứng đôi thì học nói cho nhà trai biết. Nhà trai tìm tới người quen sống gần nhà cô gái nhờ tìm hiểu tuổi tác cô gái  và dọ ý nhà gái. Tuổi đôi trẻ hợp nhau (không kỵ), và nhà gái đồng ý, họ sẽ nhờ người này đứng ra làm mai. Căn cứ theo cách tính tuổi của âm lịch người ta thường cho rằng “nhất gái lớn hai, nhì trai lớn một” là tốt nhất. Những tuổi kỵ nhau không được ăn ở cùng nhau gồm: “trai lớn hơn gái sáu tuổi”, hoặc “dần, thân, tỵ, hợi”, “thìn, tuất, sửu mùi”, “tý, ngọ, mão, dậu” – những tứ hành xung cần tránh, … Sau đó, người làm mai sẽ sang nhà gái đánh tiếng ngỏ lời. Nếu nhà gái đồng ý thì các nghi thức tiếp theo sẽ tiến hành.
Cần nói ngay rằng vai trò của người làm mai (có khi ông mai, có khi bà mai) ở đây là người tác hợp cho lứa đôi, không mang tính “chuyên nghiệp”, không vụ lợi như ở các vùng miền khác. Họ được nhà trai “cậy” sang hỏi thử con gái của nhà xóm bên về làm dâu. Ông (hoặc bà) mai nhận lời, nếu kết quả tốt đẹp thì mọi việc sẽ diễn biến tiếp theo. Không được thì … thôi!
Ở vùng đất nay, nhiều khi cũng không cần phải đến ai làm mai mốt gì cả, trong đám tiệc, trên đồng áng, hay khi tát mương, dở chà, … họ đều có thể bày tỏ suy nghĩ muốn kết sui gia với người hàng xóm ấy, trọng tình người hàng xóm ấy vui vẻ nhận lời, thế là cha mẹ hai bên tự tiến hành cưới hỏi cho hai trẻ chứ cũng chẳng cần … ông mai nữa, dân gian còn đó câu ca:
Thò tay ngắt đọt trâm bầu
Anh có thương em thì thương đại, đừng thèm cầu ông mai!
2.2. Coi mắt, coi nhà
Khi người làm mai cho nhà trai hay rằng nhà gái đã đồng ý, nhà trai tiến hành lễ “coi mắt”, dân gian gọi là “đi coi vợ”.
Đi coi vợ cho con trai thường là mẹ, cha, vài ba người chị, em gái, và chú rể tương lai. Cũng có khi chỉ chàng rể tương lai, ông (hoặc bà) hoặc chú, bác (khoảng 2 – 3 người cũng được). Lễ vật để coi mắt là một chai rượu trắng. Nhà trai đến nhà gái theo ngày giờ nào đó đã định trước. Bên gái mời một vài người trong họ hàng đến và tiếp nước trà. Trong câu chuyện râm ran hỏi thăm qua lại, nhà gái cho cô gái ra chào hỏi mời nước họ nhà trai. Họ nhà trai sẽ “coi mắt” cô dâu tương lai dáng hình, gương mặt. Cũng trong  buổi “coi mắt” này, người trong họ nhà trai – thường là mẹ chàng trai – tế nhị xin phép ra sau nhà … chơi, mục đích là để “coi” luôn  … cái bếp. Tính ăn nết ở và sự khéo léo của cô gái và gia đình cũng sẽ thể hiện ở cái bếp. Cái bếp gọn gàng, ngăn nắp chứng tỏ người con gái giỏi giang, vén khéo có thể trở thành người con dâu đảm đang. Nếu hài lòng, họ đặt vấn đề xin hỏi cưới cô gái ấy. … Bên nhà gái sẽ hứa trong vài ba ngày để trả lời. Sau khi nhà trai về, cha mẹ, bà con thân tộc của cô gái hỏi ý con. Nếu cô gái lắc đầu, cha mẹ thấy chàng rể tương lai “được” thì thuyết phục, thuyết phục không được thì coi như chuyện “duyên nợ” không thành. Nếu cô gái ưng bụng gật đầu thì nhà gái cho người làm mai, hoặc trực tiếp báo tin cho bên trai hay. Lễ “coi mắt” ấy coi như thành. Nhà trai mời nhà gái sang chơi gọi là lễ “coi nhà”.
Nhà trai sẽ sang nhà gái một lần nữa. Họ cầm sang một chai rượu trắng ( với chai ngày coi mắt là thành một cặp rượu ) để mời đại diện nhà gái sang … chơi “cho biết nhà”. Cha mẹ cô gái cùng một số người nữa, theo hẹn trước sẽ sang để “coi nhà” bên trai, nơi mà con gái họ sẽ về làm dâu sau này. Khi ấy, bên trai cũng làm một bữa cơm nhỏ đãi khách. Đám “coi nhà” ngày xưa thường là để hai họ xem “môn đăng hộ đối” hay không. Tư tưởng phương Đông vẫn còn sâu nặng trong tâm thức của người Việt. Sau đám “coi nhà” nếu cha mẹ cô gái không chê “bên trai nghèo” thì coi như đầu đã xuôi, nhà trai chuẩn bị tiếp tới đám đi chơi.
2.3. Đám đi chơi
Gọi là “đi chơi” nhưng nhà trai sẽ mang sang nhà gái hai mâm đồ (thường một mâm rượu, một mâm bánh, trái). Lúc này đã có khay trầu, nhạo rượu để tiến hành các nghi thức chính thức (chư có khay hộp). Theo ngày giờ định trước, nhà trai cử trên dưới chục người “đi chơi”. Bên gái chuẩn bị cặp vịt nấu cháo để đãi. Lễ tiến hành do hai người đại diện cho hai họ, gọi là trưởng tộc (là người có kinh nghiệm ăn nói, biết nghi lễ), bên trai có một người, bên gái cũng vây. Nghi lễ tiến hành ở bàn giữa nhà. Trên là bàn thờ tổ tiên (thường có tranh thờ với bốn chữ Nho: Cửu huyền thất tổ). Bàn giữa thường có hình chữ nhật, xung quanh kê tám đến mười cái ghế cây có dựa lưng, gọi là ghế đai. Phía trái, hoặc phía phải của gian nhà có kê bộ ván ngựa. Ngoài cha mẹ của chú rể và cha mẹ cô dâu còn có một số người lớn đại diện cho hai họ ngồi để chứng kiến. Chú rể tương lai đứng khoanh tay phía đầu bàn giữa, nhìn ra cửa. Chén rượu, lá trầu được mời đại diện hai họ. Nhà trai cũng khéo léo nhờ người làm mai hỏi nhà gái “đòi” bao nhiêu, liệu có “lo” nổi không? Nhà gái đã chuẩn bị từ trước nên đưa ra những yêu cầu như “heo”, mâm bàn, tiền, … Nhà trai nghe và hứa sẽ trả lời tiếp theo sau. Đám đi chơi tiến hành đơn giản như vậy.
Chú rể tương lai lúc bấy giờ đã được tự do xuống nhà bếp phụ những công việc lặt vặt như nhổ lông vịt, nấu nước …( nhưng mục đích chính là để gặp, tiếp xúc, nói chuyện với cô gái sắp cưới làm vợ ). Sau đó, nhà gái mời nhà trai chén cháo, ly rượu cùng những lời bàn tính cho đôi trẻ sắp tới. Xế trưa, nhà trai ra về. Ngày giờ đám nói sẽ được trình sau.
Đám đi chơi xong, nếu thuận hoà, “lo” khoản nhà gái “đòi” nổi, nhà trai, nhà gái đều tìm thầy coi ngày (thường người này biết đoán ít nhiều về tướng số, hay dựa vào sách vở nào đó trên cơ sở tuổi của cô gái và chàng trai) để định ngày giờ làm đám nói, đám cưới cho đôi trẻ.
Khi từ giã ra về, nhà trai sẽ bưng mâm không mà trước đó đã mang lễ vật sang về. Nói là mâm không, nhưng bao giờ nhà gái cũng để lại một ít lễ vật gọi là “hồi mâm”. Theo đó, nếu nhà gái để hồi mâm ít nghĩa là mọi việc tốt đẹp, ngầm ý bằng lòng, nếu ngược lại nhà gái hồi mâm hơn nửa mâm trở lên là ngỏ ý không bằng lòng! Họ truyền khẩu rằng: Mâm còn, mòn mắt, là vì thế!
Coi được ngày giờ tốt, nhà trai nhờ người làm mai hoặc tự sang nhà gái trình ngày đám nói. Sau đó, hẹn ngày “nạp tài” (tức mang tiền hoặc heo sang theo yêu cầu mà nhà gái đã đưa ra trong đám đi chơi).
Cần bổ khuyết thêm rằng: nếu nhà trai thấy nhà gái “đòi” nhiều quá, không cưới nổi thì … thôi! Còn nếu đám đi chơi xong, mà gì một lý do gì đó, nhà gái “hồi” (tức không đồng ý nữa) thì nhà gái phải hoàn trả lại hai mâm đồ mà nhà trai đã mang sang.
Khách dự đám đi chơi thường là bà con thân tộc và một vài ba nhà láng giềng thân cận của nhà gái và nhà trai. Khách được gia chủ mời bằng “miệng”, một hình hình thức thông báo đơn giản. Vì là thân tình nên hễ nghe là người được mời sắp xếp công việc nhà đến dự vui vẻ.
2.4. Đám nói
2.4.1. Nạp tài đám nói
Đám nói (đám hỏi) diễn ra sau khi hai họ nhà gái – trai thống nhất ngày giờ. Khi đi sưu tầm điền chúng tôi được nghe ông Năm Diện (ấp Vĩnh Đồng, xã Vĩnh Quới, Ngã Năm) diễn giải: Theo sách xưa, tháng cưới tùy theo tuổi cô dâu (đại lợi xuất giá) như sau: Cô dâu tuổi Mẹo, Dậu :- đại lợi tháng giêng, tháng bảy. (Nhưng tập quán xưa nay hay kiêng cử tháng giêng và tháng bảy (Ngưu Lang Chức Nữ) nên đổi thành tháng sáu và tháng chạp (tiểu lợi)/. Cô dâu tuổi Dần, Thân :- đại lợi tháng hai, tháng tám/. Cô dâu tuổi Tỵ, Hợi :- đại lợi tháng ba, tháng chín/. Cô dâu tuổi Thìn, Tuất :- đại lợi tháng tư, tháng mười/. Cô dâu tuổi Sửu, Mùi :- đại lợi tháng năm, tháng mười một/. Cô dâu tuổi Tí, Ngọ :- đại lợi tháng sáu, tháng chạp (tháng 12), …
Đám nói của nhà trai và nhà gái khác nhau về qui mô. Thông thường đám nói nhà gái được tổ chức rất rình rang. Nhà trai thì đơn giản hơn; họ tập trung vào phần lễ vật sang nhà gái. Nạp tài tức là nghi thức nhà trai mang tiền sang nhà gái (thường thỏa thuận qua ông, bà mai), ngoài tiền nhà gái còn “đòi heo” (thường gọi là con nhấm, nói trại đi, vì kêu “heo” nghe !), nếu là nhắm đứng thì nhà trai phải chở cả con còn đang sống sang. Gặp bên nhà gái làm khó, đòi heo 100 kg, khi nhà trai mang sang còn thiếu vài ký thì nhà trai phải bỏ tiền bù thêm. Nhà gái dễ hơn thì đòi “nhấm nằm”, nhà trai cứ quy ra tiền, nạp đủ là xong.
Khi nạp tài, bên nhà trai còn cho riêng cô dâu “ít tiền” để cô dâu trang điểm, mua sắm những vật dụng cần thiết cho những ngày lễ sắp diễn ra.
Số tiền nạp tài còn tùy thuộc vào lượng khách mà nhà trai đi sang nhà gái lúc đám nói.
2.4.2. Nhà trai chuẩn bị lễ vật
Phía nhà trai, không che rạp, không có chuẩn bị gì nhiều, chiều tối hôm trước chỉ làm một hai con vịt nấu cháo “nhậu” lai rai cùng anh em láng giềng và bà con thân tộc. Sáng hôm sau, chỉ nấu mâm cơm cúng ông bà, cho chú rể tương lai lạy bàn thờ bốn lạy rồi lên đường sang nhà gái.
Nhà trai chuẩn bị gồm có một khai trầu rượu, trong khai ấy có một cái nhạo đựng rượu với 2 hay 4 cái chun uống rượu, một đĩa gồm 6 – 8 lá trầu têm vôi sẵn (không bao giờ là số lẻ), gói cau tươi cẩn thận. Kèm theo đó có hai cây đèn cây nhỏ để đốt lên cho trưởng tộc trình lễ.
Một khay hộp có hai cái hộp đồng thau hình ống, có nắp, dùng để đựng nữ trang mà nhà trai sẽ cho cô dâu và tiền đồng. Nhất thiết nhà gái nào cũng đòi nhà trai phải nộp sính lễ một đôi bông, bởi người ta quan niệm đời người con gái thanh tân như một đóa hoa, nên nhà trai phải có đôi bông như một lời ngợi ca đức hạnh và dung nhan cô gái:
Gió đưa, gió đẩy bông trang,
Bông búp về nàng, bông nở về anh
Người con gái chưa chồng như hoa còn búp, khi có chồng rồi như cái hoa nở. Dân gian cũng sẵn sàng phạt “một đôi bông” đối với chàng trai nào đó sổ sàng nếm trái cấm hoặc lỡ “chung vô mùng” cô gái mà anh ta để ý, khi chưa được cha mẹ cô gái cho phép!
Nếu đã định được ngày cưới, thì trong khay hộp này còn có miếng giấy điều (giấy đỏ) viết ngày giờ nhà trai sẽ tiến hành lễ cưới để trình cho nhà gái luôn. Trong khay, còn có cặp đèn cầy đỏ loại lớn và cặp liễn đối được xếp ngay ngắn để tiến hành các nghi lễ.
Lễ vật thường từ bốn đến tám mâm: một hoặc hai mâm bánh, một hoặc hai mâm trái cây, một mâm trầu, cau, một mâm rượu, một, hai mâm trà, … tuỳ theo mùa, tuỳ theo yêu cầu của nhà gái hoặc do nhà trai tự quyết định. Sản vật trong các mâm không bắt buộc, chỉ có mâm trầu, cau và hai khay chúng tôi miêu tả ở trên là không thể thiếu.
Các mâm được phủ vải điều, riêng mâm trầu cau thường cầu kỳ đậy bằng búp sen giấy cho đẹp mắt. Theo ngày giờ đã định trước, nhà trai sẽ đi bằng ghe, xuồng sang nhà gái.
2.4.3. Che rạp và chuẩn bị ở nhà gái
Đám nói ở nhà gái làm lớn hơn, có che rạp và nhóm họ từ ngày hôm trước. Chúng tôi sẽ miêu tả cách che rạp ở phần đám cưới, đây chỉ nói lướt qua. Rạp thường có một cổng chính trên có bảng đề “LỄ ĐĂNG KHOA”, và hai cổng phụ hai bên. Trong rạp sắp xếp nhiều bàn, ghế chuẩn bị đãi tiệc.
Trong thời gian thanh niên che rạp, các cô gái trong xóm đến nhà cô dâu nướng bánh kẹp, đổ bánh bò, … để đãi khách sắp tới.
Trước đây kinh tế chủ yếu là tự túc tự cấp nên có gì đãi khách nấy, ít có chuyện mua bánh ngoài chợ mang về như hiện nay.
Chiều bữa nhóm họ, nhà gái thường làm heo. Heo nhỏ thì hai ba con, heo lớn thì một con, tuỳ theo lượng khách mời mà chủ nhà tính toán. Đàn ông trong xóm đến phụ làm heo xong thì nướng vài ba miếng “thịt bánh chè” nhậu nhâm nhi, đàn bà thì chặt, xắt xào nấu. Đến tối, khi ánh đèn dầu lớn hoặc sang thì có đèn măng xông đốt sáng rực. Đàn ông, trai tráng thì nhâm nhi ly rượu đế hát ca những bài bản tài tử. Hoặc có vài bàn cờ tướng, vài bộ bài tây đánh “hoà bình”, “kéo cách-tê”, … cho rôm rả đến khuya. Các bà, các chị tiếp tục nấu các món để ngày hôm sau đãi khách và họ nhà trai nhà trai. Tối thường chủ nhà gái đãi những người đến phụ cũng như bà con họ hàng bằng nồi cháo lòng heo lớn, …
2.4.4. Nghi thức đám nói
Sáng hôm sau, đúng giờ tốt (đã được thầy coi), nhà trai đến, thành phần chứng kiến lễ như đám đi chơi, lần này những người đi theo nhiều hơn. Họ được nhà gái mời ngồi vào bàn ăn bánh uống nước.
Ở gian chính, bàn thờ, bàn giữa được bày biện như ở đám đi chơi mà chúng tôi đã nói trên. Nghi thức “đám nói” được tiến hành. Trưởng tộc nhà trai sai rể phụ bưng mâm trầu rượu vào đặt ở đầu bàn giữa, rót rượu ra hai chun, đốt hai cây đèn cầy nhỏ trong khay trầu rượu, rồi mời kính cẩn mời trưởng tộc nhà gái. Nếu trưởng tộc nhà gái thấy đủ phép, thì uống rượu và mời nhà trai vào, trước là chủ hôn (có thể là cha hoặc mẹ hay cả hai), tiếp theo là chú rể, và những người bưng mâm lễ vật (thường là 6 – 8 mâm). Vào nhà, những mâm lễ vật để trước bàn thờ, nhà gái sẽ mời nhà trai ngồi vào những vị trí riêng biệt, nhất là hai bên suôi gia sẽ ngồi đối diện nhau, theo thứ tự trưởng tộc, ông (bà) mai, cha mẹ chủ rể, họ hàng nhà trai,… Bên gái thành phần cũng tương tự, chỉ có điều ông mai là của chung “hai họ”, chú rể và rể phụ sẽ đứng gần bàn thờ, và khi mọi người ổn định chỗ ngồi xong, rể phụ sẽ rót rượu ra (khi rót rượu thì không bao giờ rót đầy, vì có người uống, có người chỉ nhấp môi một chút cho phải phép, và dù chun rượu còn hay không, rể phụ cũng rót một chút rượu mới để mời người tiếp theo). Xong tuần rượu, trưởng tộc nhà trai xin phép trưởng tộc nhà gái để tiến hành các nghi lễ, trước tiên trình lễ vật là đôi đèn cầy, đôi liễn viết bằng chữ Nho trên nền giấy hồng điều, có khi có nhủ vàng cho đẹp mắt, mâm trầu cau, rượu, trà, bánh mứt, trái cây sau đó là trình nữ trang và số tiền mà nhà trai phụ cho nhà gái làm lễ Vu quy.
Khi nhà gái đã đồng ý chấp nhận lễ vật rồi, cha mẹ cô dâu gọi cô dâu ra chào họ nhà trai. Cô dâu mặc áo dài màu, con nhà khá giả còn mặc thêm áo kép ở ngoài, áo kép cũng là áo dài may rộng hơn một chút và có tay rộng bằng ren, để có thể nhìn thấy áo dài mặc bên trong, trang điểm lộng lẫy, … Lúc này, trưởng tộc nhà trai tiến hành lễ dán liễn. Đôi liễn đối được dán ở trước cửa chính của nhà gái. Ngoài lời chúc mừng song hỉ, liễn đối còn báo cho mọi người biết con gái nhà ấy đã có chồng, một niềm vinh dự của cha mẹ cô dâu, theo quan niệm xưa đến đây con gái coi như đã báo hiếu được cho cha mẹ, không hoặc đốn, không “bỏ nhà theo trai”, … mà có người cưới hỏi đàng hoàng, …
Số nữ trang được nhà chồng cho cô dâu cũng được công bố công khai, bà mẹ chồng hoặc một người đàn bà đứng tuổi còn đủ vợ chồng, đức hạnh, con cháu đề huề, đại diện nhà trai, dắt cô dâu vào buồng để đeo bông. Nghi thức này chính thức xác nhạn cô dâu đã có chồng!, hoa đà có chủ!
Người ta giàu thì đầu heo nọng thịt
Tụi mình nghèo thì cặp vịt đôi bông
Kèm theo bông tai là các loại vàng vòng khác, tùy theo gia cảnh từng người. Bên chồng cho cô dâu mấy bộ quàn áo (phải là số chẵn thường là 4 – 6 bộ) cũng được trình cho hai họ xem. Chú rể có thể tặng cô dâu cà rá, dây chuyền hoặc đồng hồ đeo tay, …
Các mâm lễ vật mang theo cũng trình và để lên bàn thờ cúng người quá cố, sau đem ra cho hai họ thưởng thức.
Sau khi đeo nữ trang xong, cô dâu đứng lại gần chú rể, mặt tươi như hoa trong ngày hạnh phúc nhất của đời người. Đến đây, nhà gái sẽ tiến hành nghi thức “lên đèn”, người ta chọn một người đàn ông có đạo đức, vợ chồng hạnh phúc, con cái ngoan ngoãn, người này sẽ đốt hai cây đèn do nhà trai mang tới, người này cầm cặp đèn để tim chúng chặp lại rồi đưa vào ngọn đèn khác để đốt, người ta thường kiêng cử khi đốt đèn ngọn cháy ngọn không, hoặc cháy một chút rồi tắt, sau khi lên đèn xong, cha mẹ cô dâu hay trưởng tộc sẽ dâng hương lên bàn thờ, sau đó cô dâu và chú rể lạy bàn thờ bốn lạy, chú rể lạy phải cung tay, “lên gối, xuống gối”, cô dâu phải lạy thế ngồi “xếp chè he”.
Xong, đến lễ nhận mặt cha mẹ hai bên (kể từ đây chàng rể gọi cha mẹ vợ, cô dâu gọi cha mẹ chồng), đại diện nhà gái (thường là đàn bà) dắt cô dâu chào hỏi những cô, chú, dì, cậu, … “chồng”. Những người này sẽ cho cô dâu vải, vàng, tiền … mừng. (Đây là dịp họ coi như “trả nợ” cho cha mẹ của chú rể, bởi trước đây, hoặc sau này đám nói con của họ, cha mẹ của rể hiện tại cũng sẽ cho, biếu dâu họ như vậy! có qua có lại, tình thân nghĩa thuộc là thế!).
Nghi lễ đám nói kết thúc bằng bữa tiệc rượu trọng thể. Khi từ giả về, nhà gái cũng làm nghi thức hồi mâm cho nhà trai như đám đi chơi. Có điều còn ít, hay còn nhiều trong mâm lúc bấy giờ không còn nhiều ý nghĩa nữa!
Khách mời đám nói cũng như khách mời đám đi chơi. Nhà gái cũng rất kỹ lưỡng không bỏ sót người thân, bởi nếu là dòng họ, láng giềng gần mà không cho hay, có khi đến đám cưới họ “giận” không đi, bởi lẽ đám nói mọi chi phí ăn uống do nhà trai “nạp tài”, vì thế khách của nhà gái chỉ đi “ăn” mà không phải lo tiền mừng, quá biếu. Khi ra về, chủ nhà còn báo cho khách ít bánh, trái như lời cám ơn họ đã đến chia vui.
Khách mời bên đàng trai ngoài họ hàng quyến tộc, còn là những người thân tình từng “qua lại” với cha mẹ chú rể, họ sẽ được mời sang nhà gái và phải chuẩn bị quà mừng tặng cô dâu. Nếu trước đó, họ đã được cha mẹ chú rể đi đám nói cho con trai mình thì giờ coi như dịp “đáp lễ”, nếu là lần đầu thì coi như họ đang cho cha mẹ chủ rể “nợ” tình vậy!
2.4.5. Phản bái đám nói
Sau ba ngày, cha mẹ của chú rể cùng con trai sang nhà gái mang theo cặp vịt gọi là lễ phản bái. Tình thâm sui gia hai nhà càng thêm thắt chặt. Trong bữa tiệc ở nhà gái, ông mai cùng hai bên sui gia thỏa thuận tiền nạp tài đám cưới, ngày giờ cưới, cách thức đi lại rước, đưa dâu, số lượng người tham dự, …
2.5. Đám cưới
2.5.1. Thời gian tổ chức đám cưới
Sáu tháng mưa dầm lầy lội, việc đi lại trên bộ ở vùng nông thôn sông nước Ngã Năm khá vất vả, nên người ta thường thỏa thuận tổ chức cưới vợ ăn tết, tức là để sang mùa gió chướng đến trước tết tổ chức đám cưới là hay nhất. Gặt hái vừa xong, đường sá lại sạch, khô, hơn nữa củi lửa cũng không phải lo ướt, nấu nướng thuận tiện hơn, … Thường thi khoảng trên dưới từ một đến ba tháng sau ngày đám nới là người ta tiến hành lễ cưới cho hai trẻ:
Nói vợ phải cưới liền tay
Chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha
Trong thời gian chờ đám cưới nếu vì một lý do nào đấy mà hủy hôn, nêu là bên trai chủ động “hồi” thì mất sạch cửa, ngược lại nếu bên cô dâu hồi thì phải thường bồi một số tiền lớn gấp mấy lần số tiền mà nhà trai bỏ ra tổ chức đám hỏi. Cả vàng vòng nữa trang, quần áo cũng phải trả lại hết, …
2.5.2. Nạp tài đám cưới
Nghi thức này diễn ra y như nạp tài đám nói. Trước ngày cưới 5 – 10 bữa, nhà trai đem tiền, heo qua cho ngày gái chuẩn bị lễ Vu quy.
2.5.3. Hai bên trai gái chuẩn bị và che rạp
Khách mời của đám cưới đông hơn, ngoài bà con thân tộc, và những người đã từng dự đám nói chắc chắn sẽ có mặt, nhà gái, nhà trai còn mời thêm khách gần khách xa tùy thoe mối quan hệ và kinh phí tổ chức đám cưới. Trước ngày cưới năm bảy ngày chủ nhà sẽ trực tiếp hoặc “mượn” người biết lễ nghi ăn mặc chỉnh tề, sang thì áo dài khăn đóng, không thì bà bà tươm tất đến gặp trực tiếp chủ nhà thông báo đám cưới, trân trọng mời cả nhà đến dự. Ở quê, mời đám cưới là mời cả hai, ba ngày, không bao giờ mời, ai mời giờ sẽ coi như “thất lễ”, người khó tính “bắt lỗi” và không đến dự, … Đến ngày vui, có khi cả nhà cùng đến “ăn thịt heo” làng trên xóm dưới rộn ràng như hội. Dù hao tốn nhưng chủ nhà rất lấy làm hãnh diện, bởi phong tục bao đời ông bà truyền lại là vậy!
Mỗi đám cưới ở vùng nông thôn xứ dừa thường phải trải qua ba ngày. Một ngày nhóm họ, một ngày rước dâu và ngày cuối là ngày giật rạp.
Ngày nhóm họ tức là ngày đám trai gái giỏi giang rủ nhau tự nguyện đến giúp làm cỗ và trang trí dưới sự điều hành của một tổng chỉ huy. Kẻ lo mổ heo, mổ bò, người đốn tre trúc, lá dừa, đủng đỉnh (cây móc), chuối cây để dựng rạp. Chọn người khéo tay dùng cây nhà quả vườn chưng hình rồng phụng lên bàn thơ. Dùng nhen dừa, lá chuối, nhánh cây cắt ghép tranh sơn thủy. Rạp cưới đúng điệu mỗi cột đều được ốp bẹ chuối, chung quanh quấn lá đủng đỉnh bởi lá có hình răng cưa rất đẹp, xanh bền, không rụng. Đặc biệt hoa đủng đỉnh được kết làm tua rèm. Tàu dừa xé đôi chặt ngắn bớt lá, uốn hình trái tim ở bốn bề quanh rạp. Có thể lấy lá dừa thắt hình con chim, con cá treo chung quanh cho gió lắc lư nhìn vui mắt.
Trước cổng nhà người ta dựng hai cây chuối mới trổ buồng để cầu cho con cháu sinh sôi nẩy nở. Có nơi còn thắt hai con rồng phụng bằng lá dừa khiến ai nấy trầm trồ thán phục. Sau việc trang trí, dựng rạp là đến việc mượn bàn ghế, thường đến mỗi nhà lân cận mượn một bộ gồm một bàn tròn, 9 ghế đẩu (số 9 được xem là số may mắn) sao cho đủ số đã định tùy lượng khách mời.
Đám cưới cũng là dịp để các bà các chị khoe tài nấu nướng. Ai sở trường món nào được giao nấu món đó dưới sự chỉ huy thống nhất của một người bếp trưởng.
Các cô gái lo vót tăm từ cọng dừa, lại chia nhau nhóm làm bánh kẹp người xào mứt dừa, mứt chuối … ai cũng có phần việc, đây cũng là dịp chòm xóm, dòng tộc gặp mặt đông đủ chuyện trò, cười nói râm ran vui vẻ. Cũng là dịp để các bà mai, các gia đình có con trai tới tuổi để ý tìm “tân giai nhân”.
2.5.4. Nhà gái đêm nhóm họ
Đến chiều nấu nướng đã tạm xong, bà con xa gần đã đến gần đông đủ, nhà gái mời họ ăn cháo, lai rai vài ly rượu đế, có đám còn tổ chức đàn ca tài tử, vài bài bản Tây thi, Xuân tình, Bình bán, … do các “nghệ sĩ dân gian” cây nhà lá vườn tận tình phục vụ., … Hết canh hai,  khách khứa đã lác đác ra về, chỉ còn lại bà con thân tộc của cô dâu, người ta cử hành lễ “lạy xuất giá“. Ông bà nội ngoại (nếu còn tại thế) cha mẹ, chú bác, dì cậu, … của cô dâu được mời ngồi vào bàn giữa. Cô dâu đến trước bàn thờ ông bà lạy bốn lạy, kế đó lạy cha, mẹ hai lạy, sau đó theo thứ tự từ ông bà, bác, chú thím, cô dượng, anh, chị, hết bên nội đến bên ngoại,… cô dâu lạy chung 2 lạy, gọi là để từ giã “xuất giá, vu quy”, những người trong thân tộc đáp lễ bằng cách mừng cho cô dâu tiền, nữ trang, hoặc quà, để cô dâu “làm vốn” trước khi về nhà chồng. Cách lạy thì cô dâu sau khi xá rồi ngồi xuống, hai chân thu về một bên, xuôi ra phía sau, ngồi thẳng rồi chấp hai tay lại vừa xá xuống, vừa dang hai tay ra, vừa cúi đầu vừa khom lưng xuống một chút rồi cất đầu lên, thân thẳng lên, hai tay chập lại trước ngực để lạy tiếp, nếu đã lạy đủ hai lạy thì lấy hai tay chống xuống nền nhà, đứng lên rồi xá một xá.
Ngày trước khi đã vu quy là ít khi về lại nhà của cha mẹ xưa, nên trong lễ “xuất giá”, nhiều cô dâu vừa lạy vừa khóc, bởi cô dâu biết chỉ sáng mai là bước vào một cuộc mới, “trong nhờ đục chịu”. Ông bà thường bảo khấp như nữ tử vu quy nhật để nói đến tục này. Ca dao cũng có câu:
Má ơi đừng gả con xa!
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu?
Mấy chục năm trước, tối lạy xuất giá ấy, người ta hay mở đĩa hát máy có bài vọng cổMẹ dạy con do danh ca Tư Sạng ca, những lời mẹ dạy con trước khi về nhà chồng thật là thực tế và đầy ý nghĩa.
Đám cưới nào cũng vậy, trong tiệc tùng, có rượu vào thì lời ra, người ta bàn luận về thời sự, văn chương, đạo lý trong những truyện Tàu, nào là Đông Châu Liệt Quốc, Tam Quốc diễn nghĩa, Hán Sở Tranh Hùng, Thuyết Đường, Thủy Hử, … Các cụ ông thì vừa nhâm nhi ngụm nước trà vừa đánh cờ tướng đến … sáng đêm!
Các bà các cô có dịp ăn mặc lịch sự, nào là áo gấm, áo the quần lãnh Mỹ A, nữ trang với những chiếc vòng chạm, cẩm thạch, dây chuyền với nhiều kiểu “mề đay”, còn hoa tai nhẫn hột cẩm thạch, sang trọng hơn với những hột xoàn chiếu lóng lánh.
Khu vực bếp núc thì luôn luôn đầy khói, tiếng chén bát khua nhau, tiếng dao bằm thịt trên thớt không ngớt, còn mùi thức ăn thoang thoảng bay xa.
Thanh niên đến giúp thường đào những lò âm sâu dưới đất để nấu nước pha trà, …
Nếu nhà trai rước dâu vào giờ thìn ( từ 7 – 9 giờ sáng) thì sáng hôm rước dâu đàng gái mới đãi ăn (ở quê người ta ăn cổ rất sớm, thậm chí có người ăn xong đám cưới rồi về còn kịp đi ruộng!), còn nếu rước dâu phải diễn ra hừng đông hoặc khuya thì nhà gái sẽ đãi bà con hàng xóm cổ cưới vào chiều hôm trước. Trong khi đãi ăn thường không thể vắng cô dâu.
2.5.5. Đêm nhóm họ bên nhà trai
Những hình thức nhóm họ bên nhà trai cũng không khác gì bên nhà gái. Bà con họ hàng tập trung lại dựng rạp, làm heo, nấu nước, chuẩn bị bàn ghế, bình tích, chung uống nước (đám cưới người ta thường dùng chung để đồng âm với chung thủy, ít ai dùng ly bởi người ta tin đó là điềm ly biệt!). Chỉ khác là khi bên gái tổ chức cho cô dâu lạy xuất giá thì bên trai các bậc trưởng thượng tập cho chú rể nghi thức lạy gia tiên và lạy ông bà cha mẹ. Lạy gia tiên (lạy ông bà khuất mặt) thì lạy bốn lạy, còn lạy ông bà cha mẹ thân tộc còn sống chỉ lạy hai lạy. Cách lạy họ không phải chấp hai tay lại mà phải cung hai cánh tay, ngón giữa và ngón đeo nhẫn tay mặt giáp mí tay trái, tạo thành một cung tròn để xá, khi lạy phải choàng tay qua đặt lên gối, chắp lên hông, … rất cầu kỳ.
2.5.6. Lễ vật nhà trai chuẩn bị đem đi rước dâu
Khai trầu hộp giống như khai trầu đám nói, một mâm trầu, mâm nầy trong người ta để cau và trầu, cau vài chục trái, trầu vài chục lá đều là số chẵn, rồi người ta đậy kín lại, làm dấu để không ai được mở ra, chờ cho đến ba ngày sau, cô dâu và chú rể trở về nhà cô dâu làm lễ “Dở mâm trầu”. Cho nên thường người ta dùng giấy bông cái hình búp sen, đủ lớn chụp lên trên mâm trầu, có một mâm đựng một đôi đèn sáp đỏ, có bắt bông rồng, phụng, tượng trưng cho câu chữ “Loan phụng hòa minh, sắc cầm hảo hiệp”, ngoài ra còn có những mâm rượu, mâm trà, mâm trái cây, mâm bánh mứt, toàn bộ những mâm này phải là số chẵn, tượng trưng cho vợ chồng mới cưới, đủ đôi, chẵn cập, những mâm nầy có thể để trần, có thể phủ giấy màu, có thể dùng cái quả có nắp đậy lại.
2.5.7. Đi rước dâu
Ngày rước dâu, nhà trai đi tới nhà gái gồm cha mẹ chú rể, 2 – 4 cặp vợ chồng người lớn tuổi, chú rể, một rể phụ, một số thanh niên, một số thiếu nữ đủ để bưng mâm và tổng số người đi tính luôn chú rể là số lẻ để khi cô dâu để khi về thêm cô dâu thành chẵn và phải chọn những người không có vấn đề rắc rối về hôn nhân, gia đình con cái. Ngày xưa, đám cưới hầu hết đều mặc quốc phục, nam áo dài khăn đống, nữ áo dài. Nhà giàu chú rể mặc áo gấm xanh bông bạc, hoặc mặc áo “thụng” là áo dài có tay rộng hơn, nhà nghèo thì cũng áo dài đen. Khăn đống gồm có bảy vòng, tượng trưng cho “thất phu”, dưới bảy vòng đó có chữ “Nhân” ( 人) là người đã trưởng thành.
Việc rước dâu vùng sông nước cũng có đặc điểm riêng, nếu nhà trai và nhà gái ở cùng xóm, có đường đi bộ thì đi rước dâu bằng bộ, nếu ở xa, cách trở kênh rạch thì đi bằng xuồng, ghe, … Số lượng ghe xuồng đi rước dâu cũng còn tùy thuộc vào thỏa thuận của hai bên, tùy theo sông lớn hay rạch nhỏ để chọn phương án tối ưu, hoặc một chiếc ghe lớn hay vài ba chiếc nhỏ cho tiện việc luồn lách vào tận rạch cùng xẻo hẹp. Trên ghe, trẻ già trai gái ngồi thành hai hàng quay mặt vào nhau chuyện trò vui vẻ. Những chiếc áo bà ba đủ màu sắc, tay cầm dù của các cô gái càng tạo thêm cho vùng sông nước một nét sặc sở đặc trưng.
Xưa mỗi khi chuẩn bị cưới hỏi ở vùng sông nước, ngoài việc chọn ngày lành tháng tốt người ta còn phải chọn con nước thích hợp cho việc đưa dâu đón dâu bằng ghe xuồng, sao cho không bị lỡ nước, mắc cạn, lỡ giờ tốt lại không lui không tới được. Việc này hai bên sui gia phải ngồi lại bàn kỹ, vẽ một sơ đồ đường thủy vào ra tiện lợi để sao cho bên đưa bên đón kịp đi kịp về trong con nước. Trên đường đi phải giữ sao cho lễ vật không “đổ bể”, lại phải canh sao cho kịp sang nhà gái vào giờ tốt để làm lễ. Có khi do đường xa, nắng mưa, nước lớn ròng bất chợt, đến sớm quá (so với giờ quy ước) nhà gái không cho vô, nhà trai phải ngồi dưới ghe hoặc “lang thang” đâu đó chờ tới giờ, nếu đi trể quá, nhà gái sẽ làm khó dễ, lúc bấy giờ vai trò của trưởng tộc sẽ thay mặt họ nhà trai xin bỏ lỗi để nghi thức rước dâu được tiến hành. Nhưng trể không hay, bởi đã qua giờ tốt, vì thế để cho chắc ăn người ta thường đi sớm hơn nhiều để trừ hao! Cũng có trường hợp do tính không kỹ giờ con nước lớn nước ròng, lại không may gặp luồng nước ngược gió ngược ghe đi chậm về không kịp nước đành phải ghé bến xa nhà, đoàn rước dâu phải đi bộ rất xa hoặc có khi phải lội bùn mới lên bờ được, ai nấy nhem nhuốc, phờ phạc dở khóc dở cười.
2.5.8. Nghi thức rước dâu bên nhà gái
Khi đến nhà gái, trước khi vào cổng rạp (cổng có chữ LỄ VU QUY phía trên), mấy đứa trẻ con chăng mấy sợi chỉ hồng, chú rể phải nhanh tay cho các em mấy đồng bạc lẻ, bọn trẻ tháo dây, trưởng tộc nhà trai dẫn đầu sẽ được phía nhà gái ra đón vào nhà chính để làm lễ. Pháo hoặc bong bóng được đốt nổ rang.
Vị trí ngồi vào bàn giữa và tiến hành các nghi thức trình rượu, dán liễn, lên đèn, trình lễ vật y như nghi thức đám nói. Khi cô dâu từ trong buồng bước ra, chú rể phải lanh mắt lẹ chân bước lại “chụp bóng” người vợ, nghĩa là chen chân đi trước, nếu không sau này sẽ bị vợ lấn lướt.
Cô dâu chào hai họ, nếu bên chồng có cho thêm cô dâu nữ trang khác nữa, thì mẹ chồng, hoặc cô hay dì chồng, …, sẽ đeo nữ trang nhà trai vừa mới cho thêm cô dâu, người đàn bà này vợ chồng phải đủ đôi, có nhiều đức tính tốt, gia đình hạnh phúc, để cho cô dâu nương nhờ đức hạnh ấy mà tạo dựng hạnh phúc cho gia đình mình.
Giá trị của liễn đối giống như liễn đối đám nói mà chúng tôi đã nói ở trên.
Sau khi đeo nữ trang xong, cô dâu đứng lại gần chú rể, một cặp tân hôn, tân lang mặc đẹp. Nghi thức lên đèn. Lạy bàn thờ của cô dâu, chú rể diễn ra như đám nói.
Lạy gia tiên xong, rể phụ rót rượu ra khai trầu rượu, để chú rể và cô dâu cung kính dâng mời cha mẹ cô dâu uống rồi mới làm lễ lạy cha mẹ hai lạy, lễ này mang ý nghĩa đền ơn dưỡng dục.
Rượu lưu ly chân quỳ tay rót
Cha mẹ uống rồi nối gót theo anh
Sau đó lạy họ, từ ông bà, chú bác, cô dì dượng, cho đến các anh, chị những lạy này mang ý nghĩ lễ ra mắt của cặp vợ chồng mới, nhất là chú rể chịu sự tôn kính những người trong thân tộc họ nhà gái. Trước khi làm lễ lạy ai, cô dâu và chú rể đều phải dâng rượu mời người đó uống trước khi làm lễ.
Lạy họ xong, cô dâu và chú rể có thể vào phòng nghỉ, ngày nay thì các đôi tân lang thường chụp anh với anh chị em, bạn bè thân tình để làm kỉ niệm, chờ hai họ ăn bánh, uống trà, chuẩn bị rước dâu. Nhà gái sẽ mang tất cả những mâm rượu trà bánh mứt vào trong, lấy mỗi thứ một phần kiếng lại cho nhà trai, gọi là “lợi quả” hay “hồi mâm”, như vậy mới lịch sự, ít ai “ăn hết” mà không chừa cho nhà trai một ít mang về.
Trước khi rước dâu, rể phụ lại rót rượu để trưởng tộc nhà trai, trình với trưởng tộc nhà gái xin rước dâu. Cô dâu và chú rể ra trước bàn thờ lạy bốn lạy rồi chú rể khoác tay cô dâu đi ra. Những người họ nhà trai là những người rước dâu sẽ ra khỏi nhà gái trước với cô dâu. Cô dâu phụ (thường là bạn thân hoặc chị em của cô dâu) đi theo che dù cho cặp tân lang, tay dâu phụ cầm thêm cái quả, trong đó đựng nữ trang, tiền bạc, … Hộp trang sức của cô dâu thường có thêm cây trâm. Dân gian cho rằng cây trâm ngoài việc trang sức còn có tác dụng ngăn chuyện bị “phạm phòng” (căn bệnh mà dân gian truyền là thượng mã phong, nếu xảy ra trường hợp ấy cô dâu dùng trâm đâm vào xương cùng của chú rể, sẽ cứu được, bà mẹ cô dâu đã dạy điều này cho con gái trước khi vu quy. Sự thật chẳng biết ra sao, bởi đó là chuyện “phòng the”.
Những người họ nhà gái đưa dâu sẽ đi theo sau, một số thiếu nữ được cô dâu “mượn” đem giúp những rương đựng những vật dụng chánh yếu về nhà chồng như quần áo, cặp gối cưới được cô dâu ra tài thêu thùa trang điểm từ trước, hai cái mền, … và đặc biệt không thiếu được là cái rổ may, trong đó có kim, chỉ, lỡ áo rách có kim mà may, vá, ít bánh để phòng khi lạ chỗ lạ nhà, lúc đói bụng có mà ăn, hột quẹt, đá lửa, … (ngày trước chỉ xài ống quạt bằng đá, tiêm gòn tẩm dầu hoặc xăng!) phòng khi tối lửa tắt đèn.
Khi đàn trai rước dâu ra về, đám cưới bên nhà gái cũng dần kết thúc. Nhà gái chỉ chừa lại một mâm để những người đi đưa dâu về ăn bữa chiều coi như lời cám ơn họ hàng đến chung vui và đưa con mình về nhà chồng!
2.5.9. Rước dâu về nhà trai
Đoàn rước dâu phải về nhà trai đúng giờ tốt đã được “coi” trước, cô dâu, sau khi hai họ đã an vị ở bàn giữa (được kê 8 – 12 ghế đẩu, họ nhà trai và nhà gái ngồi đối diện nhau), phía trên là bàn thờ được chưng dọn đẹp mắt, cô dâu chú rể vào làm lễ. Đầu tiên là lễ lên đèn (riêng liễn đối thường được dán trước khi xuất hành đi rước dâu, nên không làm lễ dán liễn như bên nhà gái). Kế đến là cô dâu chú rể làm lễ lạy gia tiên (nghi thức lạy y như bên nhà gái), kế đó rể phụ rót rượu để chú rể và cô dâu mời cha mẹ chú rể uống rượu, trước khi làm lễ lạy hai lạy, kế đó ông bà nội, ngoại, chú bác cô dì, anh chị ruột mỗi người đều được mời rượu trước khi làm lễ, lễ này mang ý nghĩa cô dâu nhận phận làm dâu và ra mắt họ nhà trai. Những người trong thân tộc sẽ mừng cho cô dâu và chú rể tiền bạc hay quà.
Song hành cùng lễ tân hôn, nhà trai tiến hành đãi tiệc, vừa mời nhà gái, vừa đãi khách mời ăn uống. Sau khi lạy họ xong, chú rể và cô dâu sẽ tiếp người nhà đãi khách, và cho đến lúc tiệc tàn sẽ tiễn đưa nhà gái về.
Mọi người đều bịn rịn chia tay, cô dâu khó cầm được nước mắt khi tiễn những người thân ra về.
Tối đến, cô dâu chú rể động phòng, ở miệt Ngã Năm – Sóc Trăng không có tục tế tơ hồng hay giao bôi. Buồng cưới được trang trí kín đáo. Bà mẹ chồng, hay cô, dì chồng, … để sẵn một cặp chiếu (nhưng không trải ra) ngay ngắn ở đầu giường, sau đó, cô dâu chú rể … tự xử! Cô dâu luôn được mẹ dặn trước khi giăng mùng, đợi chú rể vừa lên giường phải nhanh tay sập mùng cũng là để “chụp bóng” như ý mà chú rể đã làm khi tranh bước với cô dâu ở nhà gái, có nhanh tay vậy sau này mới không bị chồng ăn hiếp! Xem ra không biết “mẹo” nào hơn “mẹo” nào?
Cũng xin nói thêm, nếu cô dâu còn trong trắng trinh nguyên thì đường hoàng đi vào cửa chính của rạp phía trên có chữ “LỄ TÂN HÔN”, nếu ai đó lỡ “ăn cơm trước kẻng!” mà nhà trai biết (dù đó là do con trai mình gây ra!) thì cô dâu buộc phải đi vào cửa phụ bên hong rạp. Phiền toái hơn, mâm trầu mà nhà trai mang sang nhà gái ngày đám cưới có khi họ mua loại trầu bị úa cho những trường hợp này! Thật là:
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa một mình!
Nếu hai bên thương nhau đến mức không chờ được tổ chức các nghi thức cưới nói như vừa nêu, mà “gái theo trai”, “trai dắt vợ” đương nhiên là hàng xóm dị nghị, chê cười không ít, những cha mẹ hai bên (nếu động lòng thương) thì cho “tụi nhỏ” làm lễ “thú phạt”. Khi ấy, cha mẹ bên trai dắt con trai và con dâu sang nhà gái, mang theo ít trái cây, bánh nước, bên gái nhận lời đãi nước, đãi cơm rồi nhận nhau là sui gia, bên trai nhận dâu, bên gái nhận rể, nửa buổi thì về. Bên trai coi như có dâu, bên gái coi như đã gả con, nhưng rất đau lòng bởi “cha mẹ sinh con trời sinh tính”, họ coi như vô phước có đứa con hư, nên rất tủi hổ với xóm giềng, bè bạn gần xa.
Sang ngày thứ ba, sau khi khách ở xa đều ra về, mọi người lại lo “giật rạp”, dọn dẹp, trả bàn ghế. Ngày này, gia chủ còn gì mang ra hết, nâng ly tỏ lời cám ơn mọi người đã nhiệt tình giúp đỡ. Không còn phải quá lo, mọi việc đã đề huề, chủ nhà cũng đã có được nàng dâu mới, đám tiệc lại diễn ra đúng như dự tính, không có sự cố đáng tiếc nào, tiền khách mừng cũng tạm đủ để chi tiêu, nên bữa “giật rạp” giống như bữa liên hoan tổng kết, mừng công tất cả mọi người.
Sau hết, chủ nhà sẽ chọn một số “xà bần” còn dùng được, mỡ heo thắng, bánh trái đem cho hàng xóm và họ hàng quyến thuộc. Riêng ông mai thì được lĩnh “cái đầu heo” hậu hĩnh.
2.5.10. Lễ phản bái
Ba ngày sau, là ngày “Phản bái”, cô dâu và chú rể trở về nhà cô dâu, để “Dở mâm trầu”, thường cô dâu và chú rể mang theo một cặp vịt ta (vịt trắng tượng trưng cho sự trinh trắng nguyên vẹn, người ta kiêng không mang vịt tàu vì màu rằn ri), để làm thức ăn bày biện cúng ông bà. Ở vùng Ngã Năm không có chuyện đem theo đầu heo để cúng như một số vùng miền khác (nếu cô gái không còn trinh trắng, đầu heo sẽ bị cắt mất tai, gia đình nhà gái nhìn thấy như vậy phải lo “đền bù” một lượng tiền bạc nào đó xứng đáng!) Trước khi cúng, cô dâu và chú rể sẽ vào phòng, chỉ có cặp vợ chồng mới, dở mâm trầu ra, lấy trầu, cau để vào dĩa rồi mang ra bàn thờ cúng. người ta kỵ mâm trầu có người dở ra nhìn, hoặc khi hai vợ chồng dở mâm trầu ra có người nhìn thấy, họ sẽ dị nghị: người vợ sẽ cầm quyền, nếu cô dâu lấy trầu hay cau trước, ngược lại chồng sẽ cầm quyền, nếu chàng rể lấy trước.
Đôi khi vì đường xá xa xôi, vì mùa màng cấp bách hay vì lý do nào đó, trước rước dâu, nhà trai có thể xin nhà gái cho “dở mâm trầu” ngay trong ngày cưới.
Lễ Phản bái có nhiều ý nghĩa, bởi vì trong những ngày đầu, cô dâu mới gặp nhiều chuyện khó khăn trong đạo dâu con, vợ chồng, ở bên nhà chồng không dám than thở cùng ai, về lại nhà mình sẽ được tâm sự cùng mẹ hay chị em, họ sẽ giúp ý kiến, khuyến khích tinh thần, an ủi thân đơn, cảnh lạ. Phản bái còn là dịp để nhà trai “trình báo” với nhà gái tình trạng trinh tiết của cô dâu, …
Cúng ông bà bằng nồi cháo vịt xong, sui gia hai họ cùng một số thân bằng quyến thuộc và cô dâu chú rể ăn cùng ăn uống vui vẻ. Từ đây, cuộc sống của hai vợ chồng trẻ mới chấm dứt hẳn phần nghi lễ đám cưới.
3. Một vài nhận xét thay lời kết:
Ngày nay, chú rể và cô dâu tìm hiểu, quen biết nhau, mâm trầu chỉ còn ý nghĩa tượng trưng chứ ít rườm rà như ngày trước.
Ngày nay tục lạy bàn thờ ông bà người ta vẫn giữ nhưng lạy người sống kể cả cha mẹ, hầu hết được miễn, chú rể và cô dâu chỉ xá những người phải làm lễ mà thôi.
Nhớ tới đám cưới ở quê nhà, những khi giúp nấu nước, pha trà, che rạp, dọn bàn, khi làm rể phụ cẩn thận bưng khai trầu rượu, cung kính rót rượu, mời bậc trưởng thượng nhấp chun rượu lễ, để khép nép thưa trình … cũng là cái nhớ, góp thêm vào lòng nhớ cố hương.
Những thay đổi phù hợp: phương tiện di chuyển, đèn thắp sáng, hay trang phục cũng nên thay đổi: khi làm lễ ông bà mặc áo dài truyền thống, khi quay phim chụp ảnh, đãi quan khách thì com-lê, váy, …
Những điều không nên thay đổi: Đừng để những đám cưới biến thành những nỗi khổ về nợ miệng cho nhiều người, nhất là trong tình thân tộc. Cỗ bàn đãi đằng linh đình, nhạc ráp, rok thi nhau hét inh ỏi cả vùng quê thanh vắng, …
Việc nhập nhiều đám lại làm một có mặt lợi, nhưng cũng có những điều không hay, khi nó đánh mất đi quá nhiều nét đẹp trong lễ quan trọng nhất của con người, vô tình nó bị đơn giản hoá một cách quá mức …
Trần-Minh-Thương
Theo ngaytatrolai.com 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét