Thứ Sáu, 20 tháng 4, 2012

Tục cưới hỏi của người Kor

Người Kor có hơn hai vạn nhân khẩu cư trú trên vùng cao thuộc hai tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Nam. Cũng như hầu hết các dân tộc khác ở Tây Nguyên-Trường Sơn, nam nữ thanh niên bước vào cuộc sống vợ chồng khá sớm, ngay từ 16-17 tuổi.

Việc hôn nhân của các đôi nam nữ thanh niên hầu hết đều do cha mẹ hai bên quyết định thông qua hai ông mối bên nhà trai và nhà gái.
Khi con trai đã đến tuổi lập gia đình, cha mẹ chàng trai thường dành thời gian để chọn lựa cho được nàng dâu vừa ý trong đám con gái trong buôn làng. Khi đã chọn xong, họ liền hỏi ý kiến con trai. Nếu chàng trai cũng đồng ý, họ nhờ ông mối sang nhà gái để tìm hiểu và dạm hỏi.

Trường hợp nhà gái chấp thuận thì hai ông mối nhà trai, nhà gái gặp nhau để bàn bạc về đám cưới, thống nhất ngày tổ chức cũng như số lễ vật mà nhà trai đi cưới.

Ngày đầu tiên của lễ cưới, nhà trai tổ chức một đoàn gồm khoảng từ 20-30 người, trong đó có chú rể và ông mối (cha mẹ chàng rể không tham dự trong đoàn này). Khi đến cổng nhà gái, đoàn rước dâu dừng lại để đại diện họ nhà gái mang trầu cau ra mời vào nhà. Sau đó nhà gái dọn tiệc mời đoàn nhà trai dùng bữa. Khi ăn uống xong, nhà gái mới thực hiện nghi thức cúng tổ tiên, và cô dâu chú rể ăn bữa cơm đầu tiên. Lễ vật trong nghi thức này là một con gà do cha mẹ cô dâu tự làm để dâng cúng. Còn cô dâu chú rể ăn cơm thì ngồi đối diện nhau trên chiếc chiếu, ở giữa đặt cơm và thịt con gà lễ vật. Thoạt tiên, cô dâu dùng tay bốc cơm bỏ lên đầu chú rể, kế đó chú rể cũng dùng tay bốc cơm bỏ lên đầu cô dâu, mỗi người làm việc đó ba lần rồi tự bốc cơm và thức ăn từ chiếc rá lên ăn đủ ba lần. Cô dâu ăn trước, chú rể ăn sau. Khi ăn xong, chú rể bước ra khỏi phòng, nghi lễ kết thúc.

Sáng sớm hôm sau, khi ăn uống xong, nhà gái cũng bắt đầu đưa dâu sang nhà trai. Khi đoàn đưa dâu sang nhà trai, mọi thủ tục lại lần lượt thực hiện như khi ở nhà gái. Sau nghi lễ, cả hai gia đình và bạn bè cô dâu, chú rể trải qua một đêm vui vẻ tại nhà trai. Sáng hôm sau, tức ngày thứ ba của hôn lễ, khi ăn uống xong nhà gái lên đường trở về. Cô dâu cũng đi theo đoàn để về nhà cha mẹ đẻ.
Sau đó, chú rể cùng các thanh niên thuộc nhà trai mang lễ vật sang nhà gái đón dâu trở về nhà mình. Lễ vật gồm bánh và thịt. Bánh có đến hàng trăm chiếc, gói bằng lá đót. Thịt chủ yếu là thịt chuột và đùi heo. Đại diện nhà gái đón nhận lễ vật đem cúng gia tiên. Còn đoàn nhà trai ở lại nhà gái qua đêm để sáng hôm sau đưa dâu về nhà chồng và trở thành thành viên mới của gia đình chồng.
Theo hanhphuc.vn

Bài hát mừng dâu mới của đồng bào Thái Mường Lò-Yên Bái

Người phụ nữ Thái có một vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của mỗi gia đình. Họ không chỉ là những người nội trợ đảm đang mà còn góp phần không nhỏ vào việc ruộng nương, quay xa dệt vải, nuôi dạy con cái nên người... Bởi vậy, lựa chọn được vợ hiền dâu thảo là việc hệ trọng của cuộc đời mỗi người con trai và mỗi gia đình người Thái. Cũng chính vì vậy, khi đón được dâu mới, mỗi gia đình đều coi đây như một điều may mắn, tốt lành.

Bài hát mừng dâu mới do bà mối của nhà trai hát khi đã đón được dâu, chủ và khách ngồi mâm cỗ mừng, bà mối cũng có thể uỷ quyền cho một người khác có giọng hát hay hát thay mình, mọi người vừa ăn uống vui vẻ vừa hò “kéo đuôi phụ hoạ”.

Nội dung bài hát nói lên niềm vui của nhà trai khi đón được cô dâu
như ý:

Chốm au pạư phủ nị ánh náng phủ nị
Sướng khẩu dú ná chốm ná
Sướng pa dú nặm chốm búa
Sướng nộc thua chốm chao lau
Sướng nộc sau khăn chốm ná ta cả
Sướng mạ dú lang chốm an
Sướng cun quan chốm bản ten
Sướng nộc én chốm thẩm báo
Tan pay cạ tan má lai
Khỏi pay cạ khỏi báu má lai
Khỏi pay khai báu ma lạ
Chẳng đảy họ ón tô hang puống
Đảy luống ngấn ánh luống cắm tô hang xuổi
Chẳng đảy pạư nọi pạư mía khuôn

Có nghĩa là:

Mường đón dâu thêm vui nhà vui cửa
Như giống lúa mới mừng đất ruộng sâu
Như cá mừng ao sâu nước mát
Như chim sáo mừng ngọn hoa lau gọi bạn
Như chim gáy mừng chân ruộng mạ
Như ngựa dưới sàn mừng yên mới
Như ông quan mừng bản mường no ấm
Như chim én mừng hang sâu rộng
Người đi buôn người không được lãi
Tôi đi buôn tôi được lãi cả
Tôi đi bán không trở về tay không
Đi buôn được đầy túi
Đi rừng được sóc đuôi hoa
Được rồng vàng rồng bạc về đón dâu ngoan
Nên tôi mới được cô dâu hiền thảo.

Bài hát với ngôn ngữ mộc mạc với rất nhiều ví von so sánh, với những hình ảnh rất gần gũi trong đời sống lao động, sinh hoạt miêu tả niềm vui to lớn của nhà trai khi đón được dâu mới. Nhịp điệu thơ và vần điệu đặc trưng của thơ Thái càng làm tăng giá trị biểu cảm. Cách diễn đạt đặc sắc đó làm cho cái vô hình trở thành cái hữu hình thật dễ hiểu với tất cả mọi người.

Khi bà mối của nhà trai hát xong, bà mối hoặc người của nhà gái hát đáp lại, nội dùng bài hát tỏ ý khiêm nhường, con gái chúng tôi không được như thế, các ông các bà có lòng yêu quý nên khen quá đấy thôi và có lời gửi trao nhờ cậy bảo ban giúp.
Ngày nay trong các đám cưới của người Thái Mường Lò, bài hát “mừng dâu mới” vẫn vang lên đầy tình người như sức sống của một nét đẹp văn hoá.
Theo hanhphuc.vn

Hôn nhân của người Hrê

Dân tộc Hrê có khoảng 6,5 vạn người, cư trú ở vùng núi và trung du thuộc các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long (tỉnh Quảng Ngãi), huyện An Lão (tỉnh Bình Định).

Đồng bào dân tộc Hrê thường tụ cư trong các plây, tương đương làng của người Kinh. Mỗi plây có từ 15-20 nóc nhà, xây dọc ven suối, ven sông hoặc trên khu đất đồi thấp gần nguồn nước. Một nét đẹp trong nếp sống của dân tộc Hrê là sự bình đẳng giữa vợ và chồng.

Phụ nữ Hrê thường kín đáo, nhưng trong các lễ hội họ cởi mở và vui tươi. Đây là dịp để trai gái cùng ca hát, ướm hỏi nhau. Họ hát, họ ca ngợi thiên nhiên và tình yêu lứa đôi cũng được thắp lên ngọn lửa để trai làng mạnh dạn tỏ tình với người yêu. Khi trai gái đã “đôi mắt cùng liếc, đôi lòng cùng ưa”, thì về thưa với cha mẹ đến hỏi, không cần phải có người mối lái. Nếu cha mẹ hai bên đều bằng lòng thì tổ chức một bữa tiệc rượu, một ngày ở nhà trai, một ngày ở nhà gái. Hôn nhân người Hrê còn mang tính mẫu hệ, chàng trai sau ngày cưới phải về nhà gái ở rể, chỉ những nhà giàu có mới đón cô dâu về. Bên nào lấy người về thì phải đem quần áo, kiềng bạc... đưa cho nhà kia gọi là đồ dẫn cưới. Ngày cưới mời khách trong các plây uống rượu hai ba ngày liền. Nhiều cặp trai gái yêu nhau nhưng cha mẹ không đồng ý thì họ không cần cưới hỏi, lại đưa nhau ra rừng làm nhà ở, sống tự lập. Con trai góa vợ, gái góa chồng mà muốn đi bước nữa thì dẫn thêm một con trâu và một mảnh đất chừng ba sào mới được cưới. Vợ chồng lấy nhau thường ở chung với bố mẹ đến khi có con thì ra ở riêng.

Trong lễ cưới truyền thống của người Hrê có một sắc thái riêng trong từng tuần tự nghi lễ, mang ý nghĩa giáo dục thiêng liêng, ràng buộc sống thủy chung. Lễ cưới thường tổ chức nửa đêm về sáng. Họ cho rằng đây là giờ phút giao hòa của đất trời, các thần linh mới chứng kiến toàn bộ nghi lễ, ban hạnh phúc và ấm no cho đôi lứa. Gia đình hai bên đều ăn mặc đẹp, nhưng cô dâu và cô phụ dâu lại ăn mặc rất giản dị, đầu trùm khăn che kín mặt để không ai nhận ra. Họ cho rằng làm như vậy để đánh lừa ma quỷ và bảo vệ an toàn cho cô dâu. Trong lễ cưới có nghi thức trao nắm cơm và đeo chỉ đỏ của cô dâu và chú rể. Người Hrê quan niệm rằng, rượu thịt trong ngày cưới thì mọi người đã ăn hết rồi, đôi lứa chỉ còn giữ lại vật thiêng liêng là nắm cơm và sợi chỉ đỏ. Hai kỷ vật này được họ cất giữ trong một hộp gỗ, đặt phía trên cánh cửa chính của căn nhà mà lúc nào họ cũng nhìn thấy. Khi một trong hai người chết trước, người còn sống sẽ vẫn giữ kỷ vật này cho đến khi mình chết thì được đem chôn chung. Những bài hát ru, hát tỏ tình, trai gái Hrê vẫn thường cất lên:

Còn chờ đợi gì nữa mà không chịu nhận nắm cơm anh trao
Còn chờ đợi gì nữa mà không chịu đeo sợi chỉ đỏ này
Sợi chỉ cột tình anh, sợi chỉ cột tình em
Hay em chê nhà anh không đủ trâu làm thịt đãi dân làng
Không đủ rượu cần cho dân làng say ngày cưới....

Phong tục hôn nhân của người Hrê có những điều cấm kỵ khắt khe, như trai gái đồng tông không được lấy nhau. Nếu ai vi phạm mà bị phát hiện thì làng họp bắt tội, tịch thu tài sản cả hai gia đình đem chia đều cho họ hàng hai bên... Phong tục Hrê cấm con dâu ăn cơm cùng rá với bố chồng, cấm con rể ăn cơm cùng rá với mẹ vợ. Gái chưa chồng không bao giờ để hở ngực, còn gái đã có chồng và bắt đầu mang bầu là để ngực trần, không mặc yếm nữa. Người phụ nữ sau khi sinh con, chỉ năm ngày sau đã đi làm như thường, con địu sau lưng. Nếu chồng chết một năm có thể tái giá để có người đàn ông làm các việc nặng nhọc trong nhà.
Theo hanhphuc.vn

Lễ cưới cổ truyền dân tộc Lự xã Nậm Tăm

Dân tộc Lự thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái, cư trú thành từng bản dọc theo các dòng sông, suối chủ yếu ở huyện Sìn Hồ (Lai Châu) và một bộ phận ở xã Bản Hon (Tam Đường). Từ trước đến nay, người Lự đã biết canh tác lúa nước nên đời sống vật chất tương đối ổn định; đời sống tinh thần có nhiều loại hình sinh hoạt văn hoá dân gian phong phú.

Các cô gái, chàng trai Lự đến tuổi cập kê được tự do lựa chọn và tìm hiểu bạn tình. Đêm đêm, khoảng 9,10 giờ, tiếp Pí “mẹ lụk” (sáo mẹ con) cất lên từ đầu bản đến cuối bản, rồi tập trung nơi sân khuống được các thiếu nữ đốt một đống lửa to quay sợi, dệt vải (người Lự gọi là dú khuống). Nơi sàn khuống, trai gái hát đối đáp giao duyên.
Tan cuộc chơi, người con trai đến nhà con gái để tâm tình. Khi đã tâm đầu ý hợp, ước nguyện thành đôi lứa để nên vợ, nên chồng, hai bên thưa với bố mẹ để chọn ngày tốt làm lễ ăn hỏi (pay tham) hàm ý nhà trai đi gieo hạt giống nhà gái để nảy mầm thành cây; rồi đến bước “khát căn” (lời kết nghĩa, lời giao ước với nhau); rồi đám cưới chính thức “Kin khéc” được tổ chức.

Lễ cưới của trai gái dân tộc Lự thường diễn ra khi tiết trời đang độ xuân, cây cối đâm chồi nảy lộc, hoa mạ, hoa pon... đua nở.
Đêm hôm nhà trai đưa lễ vật đến nhà gái, chú rể không được đến nhà cô dâu. Đêm ấy, cô dâu và bạn bè tổ chức hát giao duyên tại sân khuống, tạm biệt bạn bè cùng trang lứa để đi lấy chồng.

Đến ngày chính lễ, từ sáng sớm ông mối bên nhà trai đến thông báo xin giờ để chàng trai đến ở rể. Nhà gái chuẩn bị một bàn rượu, một bát thịt và một đôi đũa tiếp ông mối. Ông mối quỳ trước họ nhà gái và hát những lời có tính chất thông báo, xin cho chàng trai ở rể. Sau đó nhà gái cho ông mối uống một hớp rượu, ăn một miếng thịt nhằm trả ơn người đã mai mối cho đôi trẻ thành vợ thành chồng. Sau đó đoàn nhà trai đến, dẫn đầu là ông mối. Khi đến chân cầu thang, nhà gái đón tiếp bằng những chén rượu nồng. Mỗi bên đều uống một chén để tỏ lòng thân thiện và đồng ý sự kết duyên của đôi nam nữ. Chủ nhà sắm một lễ gồm đầu, bốn chân và đuôi lợn, gà luộc sẵn trình báo với tổ tiên hôm nay nhà ta có “Kin khéc” (đám cưới con cháu trong nhà). Đoàn nhà trai lên nhà, nhà gái bầy một mâm rượu, đem các lễ vật (của hồi môn cho con gái) trình trước nhà trai như váy, áo, vòng cổ, vòng tay... Trên lễ vật được cắm những bông hoa sặc sỡ (hoa dâm bụt). Cô dâu chú rể lạy trước ông, bà, chú, bác hai bên gia đình. Ông mối hát lời chúc phúc cho hai người thành đôi lứa, sống có ích cho gia đình. Trong thời gian ông mối hát, đôi vợ chồng trẻ vẫn quỳ lạy, đầu chúi xuống chiếu.

Ông mối hát chúc phúc xong, hai bên gia đình mỗi người một tay bám vào các lễ vật ý nói chúc cho hai vợ chồng trẻ hạnh phúc, làm ăn phát đạt, sống có ích cho hai bên gia đình nương nhờ. Mỗi người đến dự cưới buộc chỉ cổ tay cho cô dâu chú rể như muốn buộc chặt tình cảm yêu thương của mình, buộc chặt tình yêu của đôi trẻ với gia đình hai bên. Sau đó họ nhà gái phát cho mỗi người một que sáp ong như sự tạ ơn của gia đình đôi trẻ và tình đoàn kết họ hàng thân tộc như mật ong, sáp ong quyện chặt.

Thủ tục hôn lễ đã xong, ông mối mời họ hàng nhà gái và dân bản cùng vui chén rượu chúc cho hai vợ chồng trẻ hạnh phúc, làm ăn phát đạt. Cuộc rượu có thể kéo dài đến đêm. Trong thời gian tổ chức “Kin khéc” chú rể luôn đóng vai trò là người tần tảo tháo vát, lúc chạy vào chỗ này, lúc đến chỗ kia để xem bàn tiệc vơi thứ gì thì kịp thời bổ sung. Một điều thú vị nữa trong 3 ngày tính từ đám cưới chính thức chú rể không được ngồi ghế, chỉ ngồi xổm để tiếp khách. Điều này hàm ý cho bố mẹ nhà gái biết tính chịu khó, siêng năng của chàng rể.

Ở dân tộc Lự, của hồi môn bên họ hàng nhà trai cho ngoài những váy áo, tiền bạc có một điều hết sức thú vị là: đám cưới xong, ngày hôm sau cô dâu đến gánh nước cho họ hàng nhà trai mỗi nhà một gánh; nhà trai trả công cho cô dâu là những con giống như đôi gà, con lợn con hoặc bát đĩa, đồ đan lát... để đôi vợ chồng trẻ làm giống và phát triển sau này.

Trong đám cưới dân tộc Lự hầu như hát giao duyên, ngay cả lời bàn bạc với nhau cũng là những câu vần điệu. Trong đám cưới không mang nặng tính thách cưới. Khi nhà có đám cưới, những người trong họ cùng chung gánh vác, nếu trường hợp kinh tế khó khăn chưa đủ điều kiện để làm bữa cơm mời họ hàng thì người ta cho nhau nợ, khi nào có điều kiện thì làm. Ngày nay, trong đám cưới người Lự cũng đã bớt đi nhiều thủ tục rườm rà, một số địa phương trai gái yêu nhau khi đã tìm hiểu chín muồi thì tự về ở với nhau (tuy nhiên cha mẹ hai bên đã ngầm đồng ý). Còn lại hầu hết đôi trẻ tự giác đến UBND xã làm thủ tục đăng ký kết hôn. Bố, mẹ người con trai đến báo với cha, mẹ cô gái rồi tổ chức lễ cưới cho đôi trẻ, tuyệt nhiên không có chuyện thách cưới.

Lễ cưới dân tộc Lự mang đậm chất thi ca, chứa đựng nhiều yếu tố khuyên răn đối với các quan hệ họ tộc, bản mường, cần được các nhà văn hoá nghiên cứu quan tâm để không mất đi một loại hình lễ tín ngưỡng đậm nét văn hoá dân tộc.
Theo hanhphuc.vn

Thứ Năm, 19 tháng 4, 2012

Đám cưới truyền thống ở Yên Thủy, Hòa Bình

Yên Thuỷ là một huyện ở cuối tỉnh Hoà Bình về phía Tây Nam, cư dân sinh sống ở đây đại bộ phận là người dân tộc Mường. Qua thời gian và năm tháng, ở vùng này bóng dáng những nếp nhà sàn cổ truyền với ánh lửa bập bùng trong những đêm đông đã thưa dần, nhưng nhiều nét sinh hoạt văn hoá mang đậm bản sắc của đồng bào vẫn còn nguyên vẹn. Và một trong những nét văn hoá độc đáo đó là nghi lễ trong hôn nhân truyền thống. Để nhà trai cưới được nàng dâu về làm con, theo truyền thống, thường phải trải qua các giai đoạn sau:

Giai đoạn tìm hiểu: sau một thời gian quen biết nhau của đôi trai gái, thường là qua công việc đồng áng, sinh hoạt văn hoá cộng đồng... họ cùng nhau hẹn hò, cùng ước nguyện xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc mai sau, người con trai chính thức thưa chuyện với bố mẹ, anh chị em trong gia đình. Khi đó, gia đình nhà trai bàn bạc và tìm một “ông mối” hay “bà mối” để đến nhà gái dạm hỏi. Người làm mối phải là người đứng tuổi, đứng đắn, khéo ăn nói. Quà mang đi dạm hỏi rất đơn giản: một gói trầu được lựa chọn kỹ gồm những lá bánh tẻ (khoảng 40 đến 60 lá), đều đặn, không bị xây xát, một bó vỏ ăn trầu, 5 đến 10 quả cau to vừa độ đầy hạt, mấy gói thuốc lào hoặc thuốc lá. Khi đến nhà gái, người làm mối hết sức khiêm nhường kể lại sự sinh thành, nuôi dưỡng của gia đình bên nhà trai từ ông, bà, bố mẹ đến bản thân người con trai đang có ý nguyện được làm chàng rể tương lai của gia đình nhà gái.

Trong lời giới thiệu của người làm mối với nhà gái có đoạn “Qua ngày qua tháng, rau cháo nuôi nhau, ăn ở nghĩa tình với xóm với làng, được ông bà, ông vải phù hộ, độ trì ông bà, bố mẹ sinh con đàn, cháu đống. Nhưng đến nay công việc đồng áng vẫn cần người chăm chút, gieo mạ, trồng lạc vẫn cần người ươm mầm... Hôm nay được ngày lành, tháng tốt gia đình nhà trai chúng tôi tới xin thưa với ông bà san sẻ cho gia đình nhà trai chúng tôi “một cành, một ré” về làm con hiền, dâu thảo...”.

Đáp lại bên nhà gái cũng trả lời rất nhã nhặn, nhún nhường “Ún anh chúng tôi con nhà nghèo khó, nhờ lộc nhờ cành chú bác nội ngoại, nhờ ơn trời đất, nhờ phúc ông bà ông vải, sinh thành được mấy mụn con cái, lớn người nhưng còn vụng dại. Bác bá bên ấy có lòng thương, lòng nhớ, không chê nghèo khó, dại khờ cho người đến dạm nhưng chưa biết lòng cháu thế nào, để cháu về chúng tôi ướm hỏi xem sao...”

Tới đây, lễ dạm hỏi kết thúc. Thông thường, nhà gái mời người làm mối một bữa cơm tươm tất gồm có rượu, thịt... chua chua, ngọt ngọt của măng rừng, cay đậm của ớt quyện với mùi thơm của thịt gà chăn thả tự nhiên, đặc sản của đồng bào.

Giai đoạn ăn hỏi (tiếng Mường Yên Thuỷ gọi là ăn noòm): Lễ ăn hỏi thường được tổ chức vào một buổi tối của một ngày được cho là tốt lành theo lịch vạn niên, được một ông thầy xem kỹ và chỉ dẫn. Ngày ấy, đại diện nhà trai chỉ có người làm mối và một chàng trai phụ trợ đi theo. Lễ vật từ nhà trai đưa sang nhà gái gồm có: một đôi gà trống, hoặc một con lợn khoảng 15-20kg, 5-10kg gạo nếp, 2 chai rượu quốc lủi, một buồng cau quả to mẩy đều, 100 lá trầu, 10 phong bánh khảo, 10 bao thuốc lá. Bên nhà gái mời những người thân thích trong gia đinh đến dự. Sau lễ cúng tổ tiên, gia chủ bên nhà gái mời đại diện nhà trai ngồi xung quanh mâm cơm, cùng uống rượu, ăn cơm và bàn định cho ngày cưới. Lễ ăn hỏi được tiến hành nhanh gọn, không ồn ào.

Từ ngày ăn hỏi đến ngày cưới chính thức, bên nhà gái bố trí để “con dâu” (tiếng Mường gọi là con du) tương lai đến thăm nhà “chồng” tương lai. Bên nhà chồng cùng họ mạc bố trí đón tiếp rất chu đáo từ bữa cơm ăn, chén nước uống đến thái độ cử chỉ, lời xưng hô, nhất là các em “chồng tương lai” luôn dành cho “chị dâu tương lai” những tình cảm đầm ấm. Sau những ngày nhìn mặt làm quen đó, đôi trẻ rất ít khi gặp nhau vì ái ngại sự đàm tiếu, bông đùa, trêu chọc của người ngoài đối với mối tình duyên của họ.

Giai đoạn lễ cưới: Lễ cưới là ngày vui nhất và cũng là ngày hội của đôi trai gái, họ mạc đôi bên và bà con xóm làng. Nhà trai, nhà gái cho người đi mời từng nhà trong anh em, họ hàng, làng xóm đến dự đám cưới của con mình. Vào tiệc cưới, sau lời chào mời hết sức khiêm nhường của người làm mối, khách khứa tuỳ theo tuổi tác được mời ngồi xung quanh mâm cơm rượu. Họ lai rai uống rượu, nói những lời hay, ý đẹp chúc mừng đôi bạn trẻ và song thân, họ hàng đôi trẻ hạnh phúc.

Giai đoạn đón dâu (tiếng Mường Yên Thuỷ gọi là rước du): lễ đón và tiễn nàng dâu được tổ chức đơn giản nhưng trang trọng, thiêng liêng dạt dào tình cảm của người thân trong gia đình, họ mạc hai bên trai gái.
Nhà gái dặn dò nàng dâu tỉ mỉ về khuôn phép, đạo làm dâu con về xây dựng cuộc sống mới bên nhà chồng. Nàng dâu bịn rịn, nước mắt tuôn trào, trước cảnh sắp phải xa mái nhà thân yêu...Nhà trai kiên nhẫn đứng đợi trong cảnh bâng khuâng.

Khi đoàn đón và đưa dâu về đến nhà trai, nàng dâu được đón tiếp rất ân cần tại gian nhà ngay đầu cầu thang bước vào. Đại diện hai bên nhà trai, nhà gái ngồi đối diện nhau. Sau lời giới thiệu của người làm mối, đại diện nhà gái bằng những lời lẽ khiêm nhường thắm thiết, bày tỏ niềm tin, sự vinh hạnh được “gửi” con gái mình cho bên nhà trai để làm dâu con trong gia đình hiển đạt. Nhà trai đáp lại bằng một hiện vật, đó là một đôi vòng tay bằng bạc trắng, là kỷ vật nhà chồng nhận con dâu, tặng con dâu cùng những lời cảm ơn chân tình đối với họ hàng nhà gái.

Sau những nghi thức ấy, một bữa tiệc thịnh soạn để mừng dâu hiền, rể quí được nhà trai chuẩn bị rất chu đáo được dọn ra. Khách khứa, từ ông già, bà cả đến nam thanh, nữ tú ngồi quây quần bên mâm cơm rượu. Họ cùng ăn, cùng uống rượu và chúc cho lứa đôi hạnh phúc, sớm có con cái, đủ nếp đủ tẻ. Trong không khí vui vẻ, đầm ấm ấy, một số nam thanh, nữ tú còn chia bè để hát những điệu dân ca dịu dàng, trong trẻo trong một không gian lung linh, mờ ảo bởi chất men say của rượu, men say của những làn điệu dân ca, lâng lâng dưới mái nhà sàn truyền thống. Để cầu mong cho đôi trẻ sống hạnh phúc, sớm có con bồng, cháu bế, đủ trai, đủ gái, người ta chọn người căng màn trải chiếu lên giường cưới của cô dâu là một người phụ nữ đứng tuổi, phúc hậu, đoan trang, đường con cái song toàn, ăn nói có duyên, trong nhà không có chuyện buồn. Người này làm nhiệm vụ căng màn, trải chiếu và sửa cho gối chăn trên giường phẳng phiu.

Và bắt đầu từ đó, người con trai chính thức nhận bổn phận làm chàng rể bên nhà vợ, là chồng của cô gái và cô gái chính thức nhận bổn phận là con dâu của gia đình nhà trai.
Theo hanhphuc.vn

Hôn nhân và tục hát cưới của người Sán Chí ở Lục Ngạn

Lục Ngạn là một huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang. Người Sán Chí sống rải rác trong nhiều xã của huyện, nhưng tập trung chủ yếu ở 2 xã là Kiên Lao (3.596 người) và Xa Lý (1.980 người). Ở các xã này, người Sán Chí chung sống với người Kinh, Tày hoặc Nùng. Cũng như các dân tộc khác, người Sán Chí rất coi trọng quan hệ hôn nhân.

Trước đây, người Sán Chí thường chỉ kết hôn trong nội bộ dân tộc mình, người cùng họ không được lấy nhau. Tuy nhiên hiện nay đã có sự kết hôn không đồng tộc nhưng chủ yếu là trong trường hợp đi làm ở nơi khác hoặc là đi công tác thoát ly khỏi gia đình. Việc kết hôn đã diễn ra giữa người trong cùng một họ nhưng phải khác nhóm, không có quan hệ huyết thống và không cùng chung một ma tổ tiên.

Trong quan hệ hôn nhân, người Sán Chí rất coi trọng vai trò của ông mối (mui cha). Nhiều đôi trai gái nên vợ nên chồng là do có sự sắp đặt của bố mẹ thông qua ông mối. Ông mối giữ vai trò là nhiệm vụ trung gian giữa hai gia đình và dòng họ. Khi được mời và nhận làm ông mối, ngoài việc chuẩn bị các nghi lễ của đám cưới, ông còn làm nhiệm vụ hoà giải cho đôi vợ chồng trong suốt cuộc đời. Kể từ khi nhận làm con của ông mối, hai vợ chồng phải có trách nhiệm chăm sóc ông, bà mối khi họ về già, khi họ chết phải để tang và có nghĩa vụ như cha mẹ đẻ của mình.
Hôn nhân (tăng sắn phẩu) phải tiến hành qua nhiều công đoạn, nhiều bước: lễ dạm hỏi (mằn phắn neng), lễ ăn hỏi (hặt cá cạy), lễ cưới (hặt chau).

Lễ dạm hỏi (mằn phắn neng) thường do ông mối đảm nhiệm. Nếu nhà gái đồng ý sẽ trao cho ông mối tờ giấy đỏ có ghi họ tên, tuổi của cô gái. Thầy cúng là người làm nhiệm vụ xem tuổi của đôi trai gái có hơn nhau không. Nếu hơn tuổi, nhà trai nhờ ông mối đến nhà gái xin định ngày ăn hỏi. Sau thời kỳ này, hai họ đi lại với nhau và đôi trai gái có thời gian tìm hiểu và yêu thương nhau, thời gian này có thể kéo dài tới vài năm. Đến một thời gian thích hợp, ông mối lại sang nhà gái xin định ngày cưới.

Cuối cùng, lễ cưới (hặt chau) được ấn định. Trước ngày hôn lễ một hôm, nhà trai phải đem đầy đủ lễ vật đã thoả thuận sang nhà gái chuẩn bị cho hôm đón dâu. Trong ngày cưới, người Sán Chí có tục hát cưới (chau cộô) còn gọi là hát tửu ca. Ở thể loại hát này, người Sán Chí có khoảng 100 bài hát, cách hát ở thể loại này được hát theo thể âm cao, thanh trong, vui vẻ. Trong đám cưới, các bạn của cô dâu, chú rể thường đến hát mừng cho họ. Khi ở nhà gái, đối tượng khởi xướng việc hát là các bên nhà gái, đó là những người bạn của cô dâu đến giúp. Đôi nam hát trả lời là người giúp việc nhà trai, là bạn của chú rể. Trong quá trình hát, nếu đôi hát của nhà gái thua thì nhà trai cứ việc vào nhà mà không phải đứng chờ ở cổng đợi nhà gái cho phép. Nếu đôi nam thua thì họ sẽ bị phạt rượu rồi mới được vào nhà gái.

Nhờ có những cuộc hát này mà hôn nhân của người Sán Chí mang ý nghĩa lớn. Đây chính là nét văn hoá độc đáo cần được lưu giữ và phát triển vững chắc. Hiện nay, chính quyền các cấp đang tìm cách khôi phục nét truyền thống văn hoá của đồng bào các dân tộc nơi đây, quyết tâm xây dựng Lục Ngạn trở thành huyện điểm văn hoá của cả nước.
Theo hanhphuc.vn

Thứ Tư, 18 tháng 4, 2012

''Chém mở cửa'' nét độc đáo trong tục cưới người Chil

Là một trong những dân tộc thiểu số có số lượng dân cư khá đông ở Lâm Đồng, địa bàn cư trú của người Chil (Cơ-ho) phổ biến là những vùng rừng núi xa xôi so với các dân tộc khác. Trong cuộc sống ngày nay, cộng đồng người Chil vẫn giữ được những nét bản sắc văn hóa độc đáo. Đến những buôn làng người Chil giữa vùng đại ngàn Đưng K’Nớh (huyện Lạc Dương), chúng ta sẽ bắt gặp những nét tập tục thú vị trong đám cưới của người Chil.

Theo truyền thống mẫu hệ, hôn nhân của người Chil cho đến nay, về cơ bản vẫn phổ biến tục “bắt chồng”. Thay vì “rước dâu” như người Kinh thì người Chil có tục “rước rể”, đưa chàng trai về nhà cô gái. Trong các đám rước này, ông cậu của chàng trai-người có vai trò quan trọng bậc nhất trong việc hôn phối của đôi trẻ-sẽ là người dẫn đầu và luôn mang theo một vật không thể thiếu đó là chiếc...xà gạc. Vật dụng này không chỉ có ý nghĩa thiết thực thường trực trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày mà còn là “vật thiêng” mở ra một giai đoạn mới cho những chàng trai, cô gái Chil ở tuổi trưởng thành. Tục chém “mở cửa” (tiếng Chil là Leh pờ mpồng) bắt nguồn từ xa xưa vẫn được cộng đồng người Chil trân trọng lưu giữ.

Sau khi dẫn đầu đoàn “rước rể” về đến nhà gái, ông cậu tiến đến trước cửa buồng tân hôn của cô dâu chú rể và hô to: “Pờ mpồng pờ klo yang ền mot. Pờ mpồng dơng klo kvônh ền mot. Kơrdơ mpồng găn, muônh rơ manh klo re ơm mơ di!” (mở rộng cửa cho chàng trai vào trong, không mở cửa thì chàng trai ở ngoài). Phía trong, ông cậu của cô gái sẽ đáp lời: “Mpồng 2 dăp co czăng ma glề, mpồng 3 dăp co czăng ma lòng, mpồng tơ nhòng co gòng ma luôs!” (cửa 2 lớp người ta che bằng tre, cửa 3 lớp người ta che bằng gỗ, cửa bên trong người ta khoanh bằng sắt, chưa mở được!). Dứt lời, người cậu của chàng trai ở ngoài sẽ chém tượng trưng liên tiếp 3 nhát để mở cửa dẫn chàng trai vào trong.

Theo già làng Rơông M’Biêng, một nhân sỹ trong cộng đồng người Chil ở Đưng K’Nớh, thì tục chém “mở cửa” là tục lệ quan trọng nhất và không thể thiếu trong lễ cưới của người Chil. Đây là tục lệ đánh dấu sự khởi đầu của hôn nhân, khởi phát quá trình sản sinh nòi giống, sản sinh ra xã hội. Sau khi “phá cửa” và được nhà gái chấp nhận, chàng trai sẽ được dẫn vào bên trong và bắt đầu tiến hành lễ cưới (thường là do Già làng làm chủ lễ).

Tập quán tiếp theo ở phần lễ chính, cô dâu chú rể được đính lên mũ 2 nắm cơm nếp cắm lông gà (hai vật tượng trưng cho sự đính kết bền chặt và mềm mại của tình yêu-hôn nhân) và hai người cụng đầu vào nhau 3 lần. Kết thúc nghi lễ này, chủ lễ sẽ chúc hai người “dài chân, dài tay như khỉ, như vượn. Đi rừng, đi núi tránh được tai họa, khi về mang rau, mang củi. Sinh con, đẻ cái đầy đàn...”.

Không chỉ độc đáo, tục chém “mở cửa” trong lễ cưới của người Chil còn mang ý nghĩa văn hóa, nhân văn sâu sắc. Tuy nhiên, điều thú vị ở đây là đối với những chàng trai, cô gái lỡ “ăn cơm trước kẻng” sẽ không được dòng họ hai bên cho phép tiến hành tục thiêng này. Giải thích về ngoại lệ này, một số già làng và trí thức người Chil cho biết: Luật tục Chil luôn đề cao sự trinh tiết, trong trắng trong hôn nhân. Vì thế người nào vi phạm sẽ không được tiến hành lễ tục cao quý của dân tộc trong đám cưới của mình.
Theo hanhphuc.vn